CNG lấy khí từ PVGas D, PVGas D lấy khí từ PVGas, PVGas đang được độc quyền phân phối khí tại VN. Một nghiên cứu gần đây cho thấy lượng cung này đang có xu hướng tăng mạnh trong thời gian tới nên tạm thời CNG chưa ảnh hưởng gì nhiều. Bắt đầu từ 2012, CNG bắt đầu nhập khí nên sẽ bị ảnh hưởng đến giá vốn (65% giá vốn là giá khí đầu vào).
Rủi ro từ giá bán, cái này thì khó đoán.
Khách hàng của Cty chủ yếu là các hộ công nghiệp có khoảng cách <=150km so với nơi đặt nhà máy.
Xu hướng xài CNG ở các hộ công nghiệp tăng trưởng rất nhanh, hiện nay cung không đáp ứng đủ cầu.
Giá khí thiên nhiên trong nước chỉ bằng 1/3 so với giá khí nhập khẩu. Hiện có nhiều biểu hiện của cầu vượt cung, định hướng từ 2012 có thể sẽ phải nhập khẩu khí.
PGS là cty thứ 2 cung cấp khí này. Nhưng thật ra CNG và PGS là 1 thôi vì PGS đang là cty mẹ nắm giữ >60% CNG. Nên sự cạnh tranh giữa 2 cty này có thể nói là không thể nào, chỉ có thể là móc nối để cùng đẩy giá bán thôi :)
CNG mới công bố một kế hoạch thoạt nhìn thì shock thiệt, thống nhất chi trả ctức 2011 là 70%, 2012 là 35%. Hiện cổ tức đã ứng cho 2011 là 15%TM, 10% CP, còn lại 45%. Nhìn lại lịch sử chi trả ctức những năm trước như sau: 2009 5%TM, 2010 10%TM, 30%CP. CNG có vẻ thích chia bằng cổ phiếu, do vậy đừng vội nhìn con số 70% mà ham liền, phải xem thêm các thông tin khác. Nhưng dẫu sao CNG vẫn rất đáng để quan tâm với cách chia, thưởng của mình :).
Khí CNG tốt hơn những nhiên liệu truyền thống ở chỗ:
* Sinh nhiệt cao, ko độc hại, ko ăn mòn thiết bị
* Bảo vệ môi trường hơn
* Tiết kiệm tối thiểu 10% chi phí so với những loại khác
Phân biệt khí CNG và LNG (Compressed natural gas, Liquefied natural gas), một thằng thì không hóa lỏng được, chỉ nén thôi còn một thằng là hóa lỏng luôn. LNG tiết kiệm được chi phí vận chuyển nhờ có mật độ năng lượng cao hơn (2.4 lần CNG, 60% dầu diesel). Do vậy người ta hay vận chuyện LNG đi đến các vùng xa, nơi không có đường ống dẫn khí hơn so với CNG.
Xem qua mấy số liệu tài chính:
CNG đẩy ROE 2011 lên đến 52.5% (45.2% 2010) nhờ Cty gia tăng vòng quay tổng tài sản và tăng cường đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên CNG vẫn nằm trong vùng cho phép khi đòn cân nợ chỉ là 1.82, nợ vay chỉ chiếm 25% tổng tài sản. Thật ra sự sụt giảm biên lãi ròng trong 2011 không hẳn là xấu đối với CNG, mà đó là xu hướng tất yếu khi 2010 doanh nghiệp được hưởng lợi quá lớn giá vốn rẻ và thuế thu nhập thấp.
Giá fair nằm trong khoảng 40.5, biên an toàn 20%, giá an toàn mua vào 32.4. Hiện giá chỉ ở 27.8, còn rẻ hơn 16.6% so với giá an toàn, why nót múc!
Update 11/3/12
Từ một bài viết trên KTSG collect được mấy thứ sau:
Năm 2011, sx gaz trong nước từ Dinh Cô và Dung Quất tầm 600k tấn, nhập khẩu tần 745.49 tấn
PV Gas chiếm 70-80% thị phần trong nước, và là nhập khẩu gas
lớn nhất nước.
Giá gas nhập khẩu trung bình của tháng 1/12: 921 USD/tấn (bao gồm premium, gồm cước phí vận chuyển, bảo hiểm, lãi cho nhà cung cấp, thường được cố định 3 tháng). Đến nửa đầu tháng 2/12 là 1075 USD/tấn. Đến đầu tháng 3/12 lên 1205 USD/tấn.
Q4/11, lượng nhập khẩu trung bình/tháng là 42,476 tấn
T1/12 ---- 72,421 tấn
T2/12 ---- 72,000 tấn
--> Liệu có vụ biết trước được tăng giá bán mà doanh nghiệp nhập khẩu trước để đầu cơ?
Với giá nhập khẩu đã gồm premium hiện nay là 1,205 usd, tính luôn thuế VAT, giá thành các sản phẩm gas trên thị trường ở khoảng 1,325 usd, vậy giá bán chênh lệch với giá thành lên đến 525 USD.
Có một đặc điểm khác khá hấp dẫn cho các doanh nghiệp kinh doanh gaz là mặc dù gaz thuộc 1 trong 14 mặt hàng bị quản lý giá nhưng giá bán lại được các doanh nhiệp tự quyết định, ko như những mặt hàng khác phải do liên bộ tài chính, công thương duyệt, hoặc Cục quản lý giá cho phép.
Một cái thú vị nữa là giá bán gaz mà PV Gaz bán cho các cty phân phối có bao gòm premium, chi phí vận chuyển, bảo hiểm và tiền lời cho người bán, phương thức bán của PV Gaz sẽ là đầu thầu, thằng nào trả premium cao nhất sẽ được mua, thông thường premium này dao động từ 70 đến 100 usd/tấn.
Thứ Ba, 28 tháng 2, 2012
Thứ Năm, 23 tháng 2, 2012
Ào ào các recommendation đầu tư vào VN
Gần đây, một số tổ chức đầu tư nước ngoài như Dragon Capital hay Manulife Asset Management đã lên tiếng bày tỏ sự lạc quan vào triển vọng thị trường chứng khoán Việt Nam năm nay. Ngân hàng Citigroup của Mỹ cũng vừa ra một báo cáo khuyến nghị mua cổ phiếu Việt Nam.
Với tựa đề chứng khoán VN, hấp dẫn nhưng đòi hỏi sự tinh tế, blogs.financial times khuyến nghị nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào VN, theo đó những khó khăn vĩ mô, lạm phát, thanh khoản yếu không còn đáng lo ngại bằng sự hấp dẫn của một thị trường đang lên, nằm trong TOP những quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
http://blogs.ft.com/beyond-brics/2012/02/23/vietnam-equities-attractive-but-tricky/#axzz1nCXlxy8Z
Không hiểu tại sao Vietcap luôn được là nguồn tham khảo mỗi khi nói về chứng khoán VN, thì đây :) "But, according to Viet Capital, a securities firm run by the daughter of Vietnam’s prime minister, this move is likely to affect traders’ social lives more than their commissions."
Update 28.02.12
Fitch Ratings: Kinh tế Việt Nam đang bước đầu đi vào ổn định
Tuy nhiên. định mức tín nhiệm Việt Nam ở mức B+, Fitch cho biết, nguyên nhân là do Việt Nam vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, từ việc lạm phát vẫn ở mức khá cao so với tốc độ tăng trưởng GDP, đến những thách thức làm "giảm nhiệt" nền kinh tế vốn phát triển quá nóng từ năm 2008. Do đó, Fitch sẽ tiếp tục theo dõi chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện và kết quả của Nghị Quyết 11 trong quá trình đánh giá, định mức tín nhiệm nợ của Việt Nam.
Nhận định xu hướng ổn định tiền Đồng thời gian tới: khó nhận định trong dài hạn, nhưng cần phải thừa nhận sự tích cực của diễn biến gần đây.
Rủi ro: lạm phát t2 vẫn còn cao, thanh khoản NH, nợ xấu vẫn phải giải quyết, biến động kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng đến VN.
Update 7.3.12
sản xuất máy móc, thiết bị điện, thép, thực phẩm, hóa chất… và tài chính như chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm… Quy mô của các DN mục tiêu có giá trị khoảng từ trên 5 triệu USD đến 100 triệu USD --> Coi chừng thằng DZM :)
http://cafef.vn/20120307081933268CA31/doanh-nghiep-nhat-ban-san-co-phieu-niem-yet.chn
Với tựa đề chứng khoán VN, hấp dẫn nhưng đòi hỏi sự tinh tế, blogs.financial times khuyến nghị nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào VN, theo đó những khó khăn vĩ mô, lạm phát, thanh khoản yếu không còn đáng lo ngại bằng sự hấp dẫn của một thị trường đang lên, nằm trong TOP những quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
http://blogs.ft.com/beyond-brics/2012/02/23/vietnam-equities-attractive-but-tricky/#axzz1nCXlxy8Z
Không hiểu tại sao Vietcap luôn được là nguồn tham khảo mỗi khi nói về chứng khoán VN, thì đây :) "But, according to Viet Capital, a securities firm run by the daughter of Vietnam’s prime minister, this move is likely to affect traders’ social lives more than their commissions."
Update 28.02.12
Fitch Ratings: Kinh tế Việt Nam đang bước đầu đi vào ổn định
Tuy nhiên. định mức tín nhiệm Việt Nam ở mức B+, Fitch cho biết, nguyên nhân là do Việt Nam vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, từ việc lạm phát vẫn ở mức khá cao so với tốc độ tăng trưởng GDP, đến những thách thức làm "giảm nhiệt" nền kinh tế vốn phát triển quá nóng từ năm 2008. Do đó, Fitch sẽ tiếp tục theo dõi chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện và kết quả của Nghị Quyết 11 trong quá trình đánh giá, định mức tín nhiệm nợ của Việt Nam.
Nhận định xu hướng ổn định tiền Đồng thời gian tới: khó nhận định trong dài hạn, nhưng cần phải thừa nhận sự tích cực của diễn biến gần đây.
Rủi ro: lạm phát t2 vẫn còn cao, thanh khoản NH, nợ xấu vẫn phải giải quyết, biến động kinh tế thế giới cũng ảnh hưởng đến VN.
Update 7.3.12
sản xuất máy móc, thiết bị điện, thép, thực phẩm, hóa chất… và tài chính như chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm… Quy mô của các DN mục tiêu có giá trị khoảng từ trên 5 triệu USD đến 100 triệu USD --> Coi chừng thằng DZM :)
http://cafef.vn/20120307081933268CA31/doanh-nghiep-nhat-ban-san-co-phieu-niem-yet.chn
Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012
Một phân tích thị trường phân đạm 2012 khá được
Tấn Đức TBKTSG 16.02.2012
Tg dự báo giá phân đạm trong 2012 sẽ bám chặt với giá phân đạm thế giới vì:
1. Nguồn cung trong nước đang tăng lên rất nhanh chóng, hiện DPM và Hà Bắc sx 1 năm 1 triệu tấn, đáp ứng 1/2 nhu cầu thị trường. Từ tháng 3.2012 tới Đạm Cà Mau, cs 800k tấn và đạm Ninh Bình 560k tấn đi vào sản xuất, sẽ vượt cầu trong nước.
2. Mặt hàng phân bón thuộc nhóm bị quản lý giá, do vậy bất chấp DPM được giao phân phối hết phần đạm do Đạm Cà Mau sx cũng không được tùy tiên nâng giá (còn bị chi phối bởi luật cạnh tranh, khi 1 doanh nghiệp nắm >=40% thị phần), ngoài ra, nguồn cung từ nhập lậu phân bón, ngay cả nhập chính thức thì thuế suất cũng chỉ 0%. Còn giảm giá thì không khả thi do xu hướng giá dầu tăng trong khi giá đạm đang giảm (lưu ý là Nhà máy đạm Cà Mau có suất đầu tư gấp đôi DPM, phải sử dụng dầu FO theo giá thị trường, chứ không được đặc quyền đặc lợi nào hết, do vậy giá thành sản phẩm sẽ cao, giao xuống đại lý phân phối cũng ko mấy hấp dẫn, chiết khấu thấp).
Hệ quả: những doanh nghiệp chuyên sống bằng nghề nhập khẩu phân bón để bán buộc phải thay đổi tư duy ko là chết, trong đó có TSC.
Update 22.02.2012
PVN đáp ứng 80% nhu cầu phân đạm trong nước
Tg dự báo giá phân đạm trong 2012 sẽ bám chặt với giá phân đạm thế giới vì:
1. Nguồn cung trong nước đang tăng lên rất nhanh chóng, hiện DPM và Hà Bắc sx 1 năm 1 triệu tấn, đáp ứng 1/2 nhu cầu thị trường. Từ tháng 3.2012 tới Đạm Cà Mau, cs 800k tấn và đạm Ninh Bình 560k tấn đi vào sản xuất, sẽ vượt cầu trong nước.
2. Mặt hàng phân bón thuộc nhóm bị quản lý giá, do vậy bất chấp DPM được giao phân phối hết phần đạm do Đạm Cà Mau sx cũng không được tùy tiên nâng giá (còn bị chi phối bởi luật cạnh tranh, khi 1 doanh nghiệp nắm >=40% thị phần), ngoài ra, nguồn cung từ nhập lậu phân bón, ngay cả nhập chính thức thì thuế suất cũng chỉ 0%. Còn giảm giá thì không khả thi do xu hướng giá dầu tăng trong khi giá đạm đang giảm (lưu ý là Nhà máy đạm Cà Mau có suất đầu tư gấp đôi DPM, phải sử dụng dầu FO theo giá thị trường, chứ không được đặc quyền đặc lợi nào hết, do vậy giá thành sản phẩm sẽ cao, giao xuống đại lý phân phối cũng ko mấy hấp dẫn, chiết khấu thấp).
Hệ quả: những doanh nghiệp chuyên sống bằng nghề nhập khẩu phân bón để bán buộc phải thay đổi tư duy ko là chết, trong đó có TSC.
Update 22.02.2012
PVN đáp ứng 80% nhu cầu phân đạm trong nước
(SGGPO).- Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) cho biết, lô hàng thương phẩm đầu tiên của Nhà máy Ðạm Cà Mau đã xuất xưởng. Ðây là dự án sản xuất phân đạm thứ hai của PVN, sau Nhà máy Ðạm Phú Mỹ. Hai nhà máy này mỗi năm có khả năng cung cấp 1,6 triệu tấn phân u-rê, đáp ứng gần 80% nhu cầu thị trường trong nước. Với hai nhà máy này và một loạt dự án khác, từ chỗ phải nhập khẩu toàn bộ phân u-rê, chúng ta đã có thể đáp ứng đủ nhu cầu phân đạm và tiến tới xuất khẩu ra nước ngoài.
Ngay khi lô hàng thương phẩm đầu tiên xuất xưởng, PVN đã quyết định giao cho Tổng công ty Phân bón và hóa chất dầu khí (PVFCCo) tiêu thụ toàn bộ sản phẩm của Nhà máy Ðạm Cà Mau.
Thứ Ba, 14 tháng 2, 2012
làn sóng đầu tư vào ngành dược ở VN
Đã từ rất lâu người ta đã đồn đoán với nhau rằng ngành dược VN sẽ bị nước ngoài "xâm chiếm" khi hội đủ điều kiện. Thời gian gần đây chúng ta dần thấy việc đó hiện thực hóa.
Khủng hoảng Châu Âu và đồng Yên tăng giá làm dòng vốn đầu tư toàn cầu dần quay về với các nước đang phát triển, trong đó ưu tiên những quốc gia như VN, Indo, ... (một nghiên cứu trước đó cho thấy dòng tiền bắt đầu khựng lại ở nhóm BRIC do những lợi thế ban đầu như lao động giá rẻ... bắt đầu không còn). Dòng vốn từ Nhật có lẽ là cái dễ cảm nhận hơn hết, họ còn công bố cả đơn hàng cho những tổ chức môi giới ở VN rằng họ đang cần những Cty tốt trong ngành tiêu dùng, dược phẩm,... Ai có giới thiệu cho họ. Đây chính là thiên thời.
Yếu tố tiếp theo là chính phủ VN đã bắt đầu nhận thấy những yếu tố cần thiết trong điều hành chính sách giúp thu hút dòng vốn ngoại. Trước đây, tỷ giá nhảy loạn xạ, nước ngoài vừa đầu tư đầu năm, cuối năm đã bay mất >10% do phá giá đồng nội tệ. Giờ đây chính sách hàng đầu là kiểm soát tỷ giá, kiểm soát giá vàng trong nước đồng thời tìm mọi cách khuyến khích dòng vốn Việt Kiều gởi về nước đầu tư, cố gắng kiểm soát nhập siêu. Đây chính là địa lợi.
Yếu tố kế đến là cách làm và con người trong điều hành các công ty dược ở VN dần thay đổi. Nếu như trước đây hầu hết công ty dược đều là những người hoạt động trong ngành, nhận thấy cơ hội, đam mê nảy ra hoạt động, và phương thức không khác chi gia đình, làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu thì nay những quỹ đầu tư dần nhảy vào những cty dược, họ giúp khá nhiều cho cty, mang lại sự chuyên nghiệp về mặt hoạt động, tiếp cận những phương thức quản bá doanh nghiệp mới, đặc biệt là họ mang vào một luồng tư duy mới về cổ phần, cổ phiếu. Sự mở rộng và khuếch đại công ty giờ đây không còn đơn thuần là từ lợi nhuận để lại, từ vốn vay trên thị trường (cái này ít vì hầu hết cty dược đều có vay nợ thấp) mà còn nhờ rất lớn từ thị trường chứng khoán, từ thị trường vốn. Hàng loạt công ty tăng vốn, phát hành và mở rộng doanh nghiệp đến chống mặt trong khi khởi đầu chỉ là những cty già đình vài tỷ bạc, điển hình là JVC. Phải khen cho những quỹ đi vào doanh nghiệp, biến đổi doanh nghiệp cho phù hợp với khẩu vị của bọn tây và bán cho bọn chúng. Và trong mua lại doanh nghiệp (ý nói mua lại với 1 tỷ lệ lớn) thì dẫu sao mua lại từ một tổ chức, hay quỹ lúc nào cũng dễ hơn là mua lại từ chính mấy ông sống chết gầy dựng doanh nghiệp từ đầu. Điều này làm thanh khoản trong M&A nhiều hơn và dòng vốn ngoại sẽ dễ đổ vào Vn hơn. Đây chính là nhân hòa.
Hội đủ cả thiên thời, địa lợi và nhân hòa như vậy cho nên hoạt động mua bán trong lĩnh vực dược phẩm sẽ tiếp tục diễn ra sôi động trong thời gian tới. Một gợi ý chiến lược cho nhà đầu tư nhỏ lẻ, thông thường thương vụ chào mua công khai nào cũng đẩy giá cổ phiếu trên sàn tăng (bất chấp diễn biến thị trường thế nào) vì doanh nghiệp mục tiêu thường áp dụng các biện pháp phòng thủ, do vậy việc xem xét mua theo (tất nhiên là có chọn lọc và có phân tích thêm thông tin khác) có thể mang lại tỷ suất sinh lợi tốt.
Dưới đây tôi xin liệt kê ra một số quỹ đang sở hữu những Cty dược trên sàn
FTIF - Templeton Frontier Markets Fund: 8% DHG
CFR International SPA: 41.9% DMC
Deutsche Bank Aktiengesellschaf. & Deutsche Investment Management Americas Inc: 4.9% DMC
Quỹ Đầu tư Chứng khoán Y tế Bản Việt (VCHF): 1.74% DMC
FTIF - Templeton Frontier Markets Fund: 9.23% IMP
Vietnam Holding Limited: 6.02% IMP
Quỹ Đầu tư Chứng khoán Y tế Bản Việt (VCHF): 5.87% IMP
J.P Morgan WhiteFriars INC.: 4.57% IMP
Quỹ tầm nhìn SSI: 12.02% OPC
Quỹ Đầu tư Chứng khoán Y tế Bản Việt (VCHF): 5.27% OPC
Pure Heart Value Investment Fund: 3.6% OPC
Vietnam Azalea Fund Limited: 25%
Công ty Quản lý quỹ Đầu tư chứng khoán Bản Việt: 6% JVC
Vietnam Equity Holding: 5.43% JVC
Vietnam Holding Limited: 5.09% JVC
Quỹ Đầu tư Chứng khoán Y tế Bản Việt (VCHF): 4.34%
CTCP Tập đoàn Đầu tư IPA: 5.34% DHT
Quỹ Đầu tư Phát triển Hà Tây: 5.34% DHT
Thông tin mua bán gần đây như sau:
15.2.12: Vietnam Azalea Fund muốn chào mua công khai gần 1,24 triệu cổ phiếu TRA, giá 45k, 23/02/2012 đến 25/03/2012
Khủng hoảng Châu Âu và đồng Yên tăng giá làm dòng vốn đầu tư toàn cầu dần quay về với các nước đang phát triển, trong đó ưu tiên những quốc gia như VN, Indo, ... (một nghiên cứu trước đó cho thấy dòng tiền bắt đầu khựng lại ở nhóm BRIC do những lợi thế ban đầu như lao động giá rẻ... bắt đầu không còn). Dòng vốn từ Nhật có lẽ là cái dễ cảm nhận hơn hết, họ còn công bố cả đơn hàng cho những tổ chức môi giới ở VN rằng họ đang cần những Cty tốt trong ngành tiêu dùng, dược phẩm,... Ai có giới thiệu cho họ. Đây chính là thiên thời.
Yếu tố tiếp theo là chính phủ VN đã bắt đầu nhận thấy những yếu tố cần thiết trong điều hành chính sách giúp thu hút dòng vốn ngoại. Trước đây, tỷ giá nhảy loạn xạ, nước ngoài vừa đầu tư đầu năm, cuối năm đã bay mất >10% do phá giá đồng nội tệ. Giờ đây chính sách hàng đầu là kiểm soát tỷ giá, kiểm soát giá vàng trong nước đồng thời tìm mọi cách khuyến khích dòng vốn Việt Kiều gởi về nước đầu tư, cố gắng kiểm soát nhập siêu. Đây chính là địa lợi.
Yếu tố kế đến là cách làm và con người trong điều hành các công ty dược ở VN dần thay đổi. Nếu như trước đây hầu hết công ty dược đều là những người hoạt động trong ngành, nhận thấy cơ hội, đam mê nảy ra hoạt động, và phương thức không khác chi gia đình, làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu thì nay những quỹ đầu tư dần nhảy vào những cty dược, họ giúp khá nhiều cho cty, mang lại sự chuyên nghiệp về mặt hoạt động, tiếp cận những phương thức quản bá doanh nghiệp mới, đặc biệt là họ mang vào một luồng tư duy mới về cổ phần, cổ phiếu. Sự mở rộng và khuếch đại công ty giờ đây không còn đơn thuần là từ lợi nhuận để lại, từ vốn vay trên thị trường (cái này ít vì hầu hết cty dược đều có vay nợ thấp) mà còn nhờ rất lớn từ thị trường chứng khoán, từ thị trường vốn. Hàng loạt công ty tăng vốn, phát hành và mở rộng doanh nghiệp đến chống mặt trong khi khởi đầu chỉ là những cty già đình vài tỷ bạc, điển hình là JVC. Phải khen cho những quỹ đi vào doanh nghiệp, biến đổi doanh nghiệp cho phù hợp với khẩu vị của bọn tây và bán cho bọn chúng. Và trong mua lại doanh nghiệp (ý nói mua lại với 1 tỷ lệ lớn) thì dẫu sao mua lại từ một tổ chức, hay quỹ lúc nào cũng dễ hơn là mua lại từ chính mấy ông sống chết gầy dựng doanh nghiệp từ đầu. Điều này làm thanh khoản trong M&A nhiều hơn và dòng vốn ngoại sẽ dễ đổ vào Vn hơn. Đây chính là nhân hòa.
Hội đủ cả thiên thời, địa lợi và nhân hòa như vậy cho nên hoạt động mua bán trong lĩnh vực dược phẩm sẽ tiếp tục diễn ra sôi động trong thời gian tới. Một gợi ý chiến lược cho nhà đầu tư nhỏ lẻ, thông thường thương vụ chào mua công khai nào cũng đẩy giá cổ phiếu trên sàn tăng (bất chấp diễn biến thị trường thế nào) vì doanh nghiệp mục tiêu thường áp dụng các biện pháp phòng thủ, do vậy việc xem xét mua theo (tất nhiên là có chọn lọc và có phân tích thêm thông tin khác) có thể mang lại tỷ suất sinh lợi tốt.
Dưới đây tôi xin liệt kê ra một số quỹ đang sở hữu những Cty dược trên sàn
FTIF - Templeton Frontier Markets Fund: 8% DHG
CFR International SPA: 41.9% DMC
Deutsche Bank Aktiengesellschaf. & Deutsche Investment Management Americas Inc: 4.9% DMC
Quỹ Đầu tư Chứng khoán Y tế Bản Việt (VCHF): 1.74% DMC
FTIF - Templeton Frontier Markets Fund: 9.23% IMP
Vietnam Holding Limited: 6.02% IMP
Quỹ Đầu tư Chứng khoán Y tế Bản Việt (VCHF): 5.87% IMP
J.P Morgan WhiteFriars INC.: 4.57% IMP
Quỹ tầm nhìn SSI: 12.02% OPC
Quỹ Đầu tư Chứng khoán Y tế Bản Việt (VCHF): 5.27% OPC
Pure Heart Value Investment Fund: 3.6% OPC
Vietnam Azalea Fund Limited: 25%
Công ty Quản lý quỹ Đầu tư chứng khoán Bản Việt: 6% JVC
Vietnam Equity Holding: 5.43% JVC
Vietnam Holding Limited: 5.09% JVC
Quỹ Đầu tư Chứng khoán Y tế Bản Việt (VCHF): 4.34%
CTCP Tập đoàn Đầu tư IPA: 5.34% DHT
Quỹ Đầu tư Phát triển Hà Tây: 5.34% DHT
Thông tin mua bán gần đây như sau:
15.2.12: Vietnam Azalea Fund muốn chào mua công khai gần 1,24 triệu cổ phiếu TRA, giá 45k, 23/02/2012 đến 25/03/2012
15.2.12 Quỹ đầu tư công nghiệp DI Châu Á sẽ nắm giữ 10 triệu cổ phiếu của Công ty cổ phần thiết bị y tế Việt Nhật
15.1.12 DMC: CFR International SPA đã "gom" xong 38,58% vốn.
(Nói nhỏ: mặt dù sinh sau đẻ muộn nhưng quỹ y tế Bản Việt đã rất nhanh chân, hầu hết đều có cổ phần trong những Cty y tế ngon, vậy sao mình không theo nhỉ :))
Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012
Tóm tắt tác phẩm Thị trường và đạo đức
1. Tóm tắt bài phỏng vấn do Tom G. Palmer thực hiện, John Mackey ghi. (John Mackey, doanh nhân, đồng-sáng lập viên và là đồng-giám đốc điều hành công ty Whole Foods Market, giải thích triết lí của ông về “chủ nghĩa tư bản tự giác” và chia sẻ những suy nghĩ của ông về bản chất và động cơ của con người, bản chất của kinh doanh, và sự khác nhau giữa chủ nghĩa tư bản thị trường tự do và “chủ nghĩa tư bản ô dù”).
Ông cho rằng nước Mỹ đã từng là một thị trường của tư bản tự do, nơi còn người tự do kinh doanh, tự do phát triển, năng động và luôn tìm ra cái mới, cái mà ông gọi là có làm thì mới có ăn. Tuy nhiên, trong hơn 1 thập kỷ trở lại đây, nước Mỹ đang dần chuyển hoá sang thị trường của tư bản ô dù, những thế lực ngầm lobby chính sách để chính phủ phục vụ ngược lại cho họ, ban họ những đặc quyền, đặc lợi về thuế là một cách giết chết sự cân bằng, vì về cơ bản chính phủ ko có tiền, chính phủ lấy tiền của người này đem cho người khác thì quá mất cân bằng đi chứ. Ông tôn sùng chủ nghĩ tư bản tự do (cái mà ông gọi là chủ nghĩa tư bản tự giác) vì ở đó mọi người đều có lợi, việc kinh doanh của ông là một ví dụ, công việc kinh doanh tạo ra lợi nhuận cho công ty, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động (họ hạnh phúc và tự nguyện làm việc cho công ty chứ ko có bóc lột gì cả), tạo lợi ích cho các nhà cung cấp, tạo lợi ích cho cổ đông và ông có thể làm từ thiện để chia sẻ lợi ích mà cty có được với hàng triệu người, ông dẫn chứng cho sự tôn sùng của ông bằng chính nước Mỹ, Mỹ bắt đầu = sự nghèo khổ nhưng sau 200 năm phát triển tư bản tự do đã trở thành nước giàu nhất thế giới.
John Mackey đề cao đạo đức trong kinh doanh cũng như trong vận hành nền kinh tế, một người kinh doanh có đạo đức là người dựa trên mối quan hệ win win trong mọi đối tượng, đối tác làm ăn. Đọc tới đây tôi nghĩ đến một số việc làm của doanh nhân TQ, họ dám làm cả trứng gà giả, nhân bánh bao giả, sửa hoá chất độc hại.... rõ ràng đạo đức của họ ko tốt. Rõ ràng chủ nghĩa tư bản dựa trên những tổ chức kinh doanh như thế này là ko thể chấp nhận. --> vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để người kinh doanh đều có đạo đức, để mọi người cùng hướng về tư bản tự do?
Trong bài phỏng vấn này, chúng ta còn được thấy một tâm lý hành vi của con người, dường như những người đạt được tất cả những nhu cầu cơ bản, cả nhu cầu được tôn sùng thì họ chỉ muốn hướng đến một mục tiêu cao cả hơn, một mục tiêu của các vị bồ tát, cứu nhân độ thế, Bill Gates, Buffet, và cả Mackey... --> Liệu rằng tâm lý hành vi có phải là cái động, cái có thể biến động theo từng nấc thang phát triển của con người, trong từng giai đoạn khác nhau hành vi của 1 con người cụ thể sẽ rất khác nhau? Liệu Bill Gate có từng nghĩ đến toàn bộ sự nghiệp cuối đời của mình dành cho từ thiện ở lứa tuổi 25? Liệu rằng ở các lứa tuổi trẻ hơn và chưa thật sự có mọi thứ họ muốn họ có tấm lòng bồ tát? Những điều này làm cho tôi nghĩ tâm lý hành vi không dễ là môn nghiên cứu 1 sớm 1 chiều đưa ra một kết luận phổ quát.
Gốc: here
2. Đạo đức kinh doanh
Câu hỏi hấp dẫn hơn là liệu công ty có thể hoạt động mà không cần có ý thức về đạo lí? Mục tiêu duy nhất của công ty này là tối đa hóa lợi nhuận. Công ty có thể hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật nhưng không quan tâm tới các nguyên tắc đạo đức. Họ có thể hỏi đường lối hoặc việc làm của họ là hợp pháp hay phi pháp, nhưng họ không hỏi là đúng hay sai. Đạo đức nằm bên ngoài phạm vi kinh doanh. Tiêu chuẩn lương thiện của họ có thể bắt nguồn từ thói vị lợi, tính liêm khiết của cá nhân có thể là không quan trọng, và cá nhân chỉ được đánh giá theo tỉ lệ đóng góp của anh ta mà thôi.
Tg cho rằng nếu xảy ra hiện tượng đó thì trước sau gì chi phí hoạt động của cty cũng sẽ tăng lên và cty dần rơi vào cảnh mất khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác. (xem những dẫn chứng cụ thể của tg).
Vậy đạo đức kinh doanh là gì? Mỗi công ty có cách hiểu khác nhau về tiêu chuẩn đạo đức của công ty và cách thể hiện nó. Nhưng nghiên cứu điều lệ của nhiều công ty khác nhau ta thường thấy những chủ đề sau đây: liêm khiết, trong sáng, lương thiện và nói đúng sự thật, tôn trọng cá nhân con người vì đấy là những người có nhân phẩm, đối xử không thiên vị với mọi người, phục vụ một cách hoàn hảo, đặc biệt là trong quan hệ với khách hàng và trong phương thức lãnh đạo của những người có chức quyền, tầm quan trọng của sự hợp tác, trách nhiệm của công ty đối với môi trường, và cam kết ủng hộ những cộng đồng, nơi công ty đặt cơ sở sản xuất.
Gốc: here
Ông cho rằng nước Mỹ đã từng là một thị trường của tư bản tự do, nơi còn người tự do kinh doanh, tự do phát triển, năng động và luôn tìm ra cái mới, cái mà ông gọi là có làm thì mới có ăn. Tuy nhiên, trong hơn 1 thập kỷ trở lại đây, nước Mỹ đang dần chuyển hoá sang thị trường của tư bản ô dù, những thế lực ngầm lobby chính sách để chính phủ phục vụ ngược lại cho họ, ban họ những đặc quyền, đặc lợi về thuế là một cách giết chết sự cân bằng, vì về cơ bản chính phủ ko có tiền, chính phủ lấy tiền của người này đem cho người khác thì quá mất cân bằng đi chứ. Ông tôn sùng chủ nghĩ tư bản tự do (cái mà ông gọi là chủ nghĩa tư bản tự giác) vì ở đó mọi người đều có lợi, việc kinh doanh của ông là một ví dụ, công việc kinh doanh tạo ra lợi nhuận cho công ty, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động (họ hạnh phúc và tự nguyện làm việc cho công ty chứ ko có bóc lột gì cả), tạo lợi ích cho các nhà cung cấp, tạo lợi ích cho cổ đông và ông có thể làm từ thiện để chia sẻ lợi ích mà cty có được với hàng triệu người, ông dẫn chứng cho sự tôn sùng của ông bằng chính nước Mỹ, Mỹ bắt đầu = sự nghèo khổ nhưng sau 200 năm phát triển tư bản tự do đã trở thành nước giàu nhất thế giới.
John Mackey đề cao đạo đức trong kinh doanh cũng như trong vận hành nền kinh tế, một người kinh doanh có đạo đức là người dựa trên mối quan hệ win win trong mọi đối tượng, đối tác làm ăn. Đọc tới đây tôi nghĩ đến một số việc làm của doanh nhân TQ, họ dám làm cả trứng gà giả, nhân bánh bao giả, sửa hoá chất độc hại.... rõ ràng đạo đức của họ ko tốt. Rõ ràng chủ nghĩa tư bản dựa trên những tổ chức kinh doanh như thế này là ko thể chấp nhận. --> vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để người kinh doanh đều có đạo đức, để mọi người cùng hướng về tư bản tự do?
Trong bài phỏng vấn này, chúng ta còn được thấy một tâm lý hành vi của con người, dường như những người đạt được tất cả những nhu cầu cơ bản, cả nhu cầu được tôn sùng thì họ chỉ muốn hướng đến một mục tiêu cao cả hơn, một mục tiêu của các vị bồ tát, cứu nhân độ thế, Bill Gates, Buffet, và cả Mackey... --> Liệu rằng tâm lý hành vi có phải là cái động, cái có thể biến động theo từng nấc thang phát triển của con người, trong từng giai đoạn khác nhau hành vi của 1 con người cụ thể sẽ rất khác nhau? Liệu Bill Gate có từng nghĩ đến toàn bộ sự nghiệp cuối đời của mình dành cho từ thiện ở lứa tuổi 25? Liệu rằng ở các lứa tuổi trẻ hơn và chưa thật sự có mọi thứ họ muốn họ có tấm lòng bồ tát? Những điều này làm cho tôi nghĩ tâm lý hành vi không dễ là môn nghiên cứu 1 sớm 1 chiều đưa ra một kết luận phổ quát.
Gốc: here
2. Đạo đức kinh doanh
Câu hỏi hấp dẫn hơn là liệu công ty có thể hoạt động mà không cần có ý thức về đạo lí? Mục tiêu duy nhất của công ty này là tối đa hóa lợi nhuận. Công ty có thể hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật nhưng không quan tâm tới các nguyên tắc đạo đức. Họ có thể hỏi đường lối hoặc việc làm của họ là hợp pháp hay phi pháp, nhưng họ không hỏi là đúng hay sai. Đạo đức nằm bên ngoài phạm vi kinh doanh. Tiêu chuẩn lương thiện của họ có thể bắt nguồn từ thói vị lợi, tính liêm khiết của cá nhân có thể là không quan trọng, và cá nhân chỉ được đánh giá theo tỉ lệ đóng góp của anh ta mà thôi.
Tg cho rằng nếu xảy ra hiện tượng đó thì trước sau gì chi phí hoạt động của cty cũng sẽ tăng lên và cty dần rơi vào cảnh mất khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác. (xem những dẫn chứng cụ thể của tg).
Vậy đạo đức kinh doanh là gì? Mỗi công ty có cách hiểu khác nhau về tiêu chuẩn đạo đức của công ty và cách thể hiện nó. Nhưng nghiên cứu điều lệ của nhiều công ty khác nhau ta thường thấy những chủ đề sau đây: liêm khiết, trong sáng, lương thiện và nói đúng sự thật, tôn trọng cá nhân con người vì đấy là những người có nhân phẩm, đối xử không thiên vị với mọi người, phục vụ một cách hoàn hảo, đặc biệt là trong quan hệ với khách hàng và trong phương thức lãnh đạo của những người có chức quyền, tầm quan trọng của sự hợp tác, trách nhiệm của công ty đối với môi trường, và cam kết ủng hộ những cộng đồng, nơi công ty đặt cơ sở sản xuất.
Gốc: here
Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2012
Tranh cãi quanh chuyện đầu cơ (speculation) và đầu tư (investment)
Theo ĐTM: đầu cơ là cần thiết và phản ánh bản ngã của loài người: đầu cơ giúp cấu trúc xã hội phát triển, kinh tế theo đó phản triển. Theo tg, đầu cơ nằm lưng lửng giữa hành động có tính khoa học và hành động có tính cờ bạc, "Hành động có tính đầu cơ là hành động chỉ dựa một phần vào kinh nghiệm đã biết. Do còn nhiều yếu tố liên quan đến hành động mà ta không biết, hoặc không thể biết, nên khả năng thành công của hành động là không chắc chắn. Tuy nhiên, bởi hành động có tính đầu cơ dựa một phần vào kiến thức đã biết, nên ta không đơn thuần chỉ có cơ hội thành công tương tự như đánh bạc, mà còn có khả năng nâng cao được cơ hội thành công nếu ta chịu khó học hỏi". Những nhà đầu cơ chuyên nghiệp là những nhà đầu cơ giúp tiết giảm tối đa rủi ro có thể có. các nhà đầu cơ chuyên nghiệp đều phải tìm cách giúp khách hàng của mình kiểm soát rủi ro đồng thời tìm cách phân tán rủi ro sang cho nhiều người khác nhằm đảm bảo rằng hoạt động kinh doanh của mình có lợi nhuận. Chính vì nhu cầu phải phân tán rủi ro sang cho nhiều người khác nhau dẫn đến xuất hiện tầng tầng lớp lớp các nhà đầu cơ chuyên nghiệp khi nền kinh tế thị trường toàn cầu bùng nổ. Ngày nay, khi nhắc đến giới đầu cơ, người ta chỉ còn nói đến giới kinh doanh các sản phẩm phái sinh. Theo Wikipedia, tổng giá trị của các hợp đồng phái sinh toàn cầu vào giữa năm 2007 ước khoảng 510 nghìn tỷ USD, lớn gấp hơn 4 lần tổng giá trị tài sản thực trên toàn thế giới. --> sự phát triển chóng mặt này đã giúp đồng vốn dịch chuyển nhanh hơn đến những vùng trũng về tiềm năng sinh lợi. Vậy đầu cơ có phải là tội đồ cho khủng hoảng 2008 - 2009? Theo tg thì không, nhà đầu cơ đã quá tin vào điều hành chính sách của chính phủ, của các NHTW, đã khiến họ hạ thấp các tiêu chuẩn an toàn về vốn, đẩy dân chúng vào các hành động tiêu dùng và đầu tư quá mức, dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Chính vì cho rằng nhà nước và quản lý nhà nước mới chính là căn nguyên sâu xa của khủng hoảng nên tg đề xuất chính phủ nên tối thiểu hoá rủi ro tập trung (regime uncertainty) (rủi ro ko thể triệt tiêu = quy luật số lớn). Hay nói cách khác, các chính phủ nên tập trung vào cân bằng chi tiêu ngân sách, xây dựng các luật lệ ổn định, và tạo
ra một đồng tiền “tốt” không bị mất giá trị.
Tg liệt kê một số loại hình đầu cơ cơ bản "hành động đầu cơ là hành động đầu tư vào những thị trường/hoạt động có mức rủi ro cao hơn mức trung bình để có thể thu được lợi nhuận ở mức cao hơn mức trung bình của thị trường"
1- Hành động khởi nghiệp/sản xuất (entrenpreneurship): tập hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra hàng hoá và bán lấy lợi nhuận.
2- Hành động buôn bán (arbitrage): mua hàng hoá ở chỗ này bán sang chỗ khác để hưởng chênh lệch giá.
3- Hành động mua bán cổ phiếu để tham gia điều hành doanh nghiệp nhằm hưởng cổ tức.
4- Hành động mua bán cổ phiếu hoặc các loại tài sản chứng khoán hoá (commodities, tỷ giá,...) để hưởng chênh lệch giá tài sản.
5. Hành động thuộc nhóm 4 nhưng với leverage cao để hưởng lợi nhuân lớn.
6- Hành động bán khống cổ phiếu hoặc tài sản chứng khoán hoá (short-selling) để hưởng chênh lệch giá.
Hành động từ 4 trở đi thường bị người ta phê phán nhưng theo tg thì chính nhờ những hành động này mà đồng vốn sẽ thông minh và linh hoạt rất nhiều, nơi đâu có cơ hội sẽ là nơi để dòng tiền chuyển tới, ngược lại những nơi hết cơ hội hoặc đang rơi vào khó khăn sẽ chứng kiến cảnh rút vốn cực mạnh ra khỏi đó, và nhờ đó mà nó tác động ngược lại hoạt động sản xuất hàng hoá, làm giá cả hàng hoá phản ánh đúng hơn với thị trường.
Tg còn phân tích đầu cơ ở 2 khía cạnh, thứ 1 là sự gian lận (cheating), rõ ràng đây là hành vi ko thể chấp nhận, các cơ quan quản lý nhà nước phải có trách nhiệm phát hiện những kẻ vi phạm luật chơi này, thứ 2 là mối quan hệ giữa đầu cơ và khủng hoảng, tg cho rằng, đầu cơ không tạo ra khủng hoảng (vì khủng hoảng nó nằm ở chỗ nhà nước và quản lý nhà nước như đã nói ở trên), tg cũng không cho rằng đầu cơ làm cho khủng hoảng tồi tệ thêm vì trong trường hợp khủng hoảng là do xấu thật, hoạt động short selling chỉ có tác động làm nền kinh tế vận động nhanh hơn đến mặt bằng xấu, còn trong trường hợp nền kinh tế ko xấu đến nỗi nhưng vì thông tin bất cân xứng làm nhà đầu cơ ngộ nhận thì nhà nước, các cơ quan giám sát phải có động tác dừng giao dịch để nhà đầu cơ có thời gian ngẫm nghĩ phân tích lại để đánh giá đúng tình hình.
TS LHG cho rằng đầu cơ đơn giản chỉ là sự mua rẻ bán đắt, đầu cơ không trực tiếp nằm trong hoạt động sản xuất, nó nằm ở khâu phân phối, từ cổ chí kim người ta thường nhìn dân đầu cơ với ánh mắt không mấy tích cực. Ông cho rằng đầu cơ không hẳn xấu tuy vậy nên có kiểm soát cho hoạt động này, đặc biệt là trong giai đoạn suy thoái khủng hoảng, đầu cơ sẽ làm cho thị trường sụp đổ nhanh chóng.
ra một đồng tiền “tốt” không bị mất giá trị.
Tg liệt kê một số loại hình đầu cơ cơ bản "hành động đầu cơ là hành động đầu tư vào những thị trường/hoạt động có mức rủi ro cao hơn mức trung bình để có thể thu được lợi nhuận ở mức cao hơn mức trung bình của thị trường"
1- Hành động khởi nghiệp/sản xuất (entrenpreneurship): tập hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra hàng hoá và bán lấy lợi nhuận.
2- Hành động buôn bán (arbitrage): mua hàng hoá ở chỗ này bán sang chỗ khác để hưởng chênh lệch giá.
3- Hành động mua bán cổ phiếu để tham gia điều hành doanh nghiệp nhằm hưởng cổ tức.
4- Hành động mua bán cổ phiếu hoặc các loại tài sản chứng khoán hoá (commodities, tỷ giá,...) để hưởng chênh lệch giá tài sản.
5. Hành động thuộc nhóm 4 nhưng với leverage cao để hưởng lợi nhuân lớn.
6- Hành động bán khống cổ phiếu hoặc tài sản chứng khoán hoá (short-selling) để hưởng chênh lệch giá.
Hành động từ 4 trở đi thường bị người ta phê phán nhưng theo tg thì chính nhờ những hành động này mà đồng vốn sẽ thông minh và linh hoạt rất nhiều, nơi đâu có cơ hội sẽ là nơi để dòng tiền chuyển tới, ngược lại những nơi hết cơ hội hoặc đang rơi vào khó khăn sẽ chứng kiến cảnh rút vốn cực mạnh ra khỏi đó, và nhờ đó mà nó tác động ngược lại hoạt động sản xuất hàng hoá, làm giá cả hàng hoá phản ánh đúng hơn với thị trường.
Tg còn phân tích đầu cơ ở 2 khía cạnh, thứ 1 là sự gian lận (cheating), rõ ràng đây là hành vi ko thể chấp nhận, các cơ quan quản lý nhà nước phải có trách nhiệm phát hiện những kẻ vi phạm luật chơi này, thứ 2 là mối quan hệ giữa đầu cơ và khủng hoảng, tg cho rằng, đầu cơ không tạo ra khủng hoảng (vì khủng hoảng nó nằm ở chỗ nhà nước và quản lý nhà nước như đã nói ở trên), tg cũng không cho rằng đầu cơ làm cho khủng hoảng tồi tệ thêm vì trong trường hợp khủng hoảng là do xấu thật, hoạt động short selling chỉ có tác động làm nền kinh tế vận động nhanh hơn đến mặt bằng xấu, còn trong trường hợp nền kinh tế ko xấu đến nỗi nhưng vì thông tin bất cân xứng làm nhà đầu cơ ngộ nhận thì nhà nước, các cơ quan giám sát phải có động tác dừng giao dịch để nhà đầu cơ có thời gian ngẫm nghĩ phân tích lại để đánh giá đúng tình hình.
TS LHG cho rằng đầu cơ đơn giản chỉ là sự mua rẻ bán đắt, đầu cơ không trực tiếp nằm trong hoạt động sản xuất, nó nằm ở khâu phân phối, từ cổ chí kim người ta thường nhìn dân đầu cơ với ánh mắt không mấy tích cực. Ông cho rằng đầu cơ không hẳn xấu tuy vậy nên có kiểm soát cho hoạt động này, đặc biệt là trong giai đoạn suy thoái khủng hoảng, đầu cơ sẽ làm cho thị trường sụp đổ nhanh chóng.
Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2012
Crowding out effect - hiệu ứng chèn lấn
Hiệu ứng chèn lấn (crowding out effect), đây là hiện tượng sụt giảm trong tiêu dùng hoặc đầu tư tư nhân xảy ra do sự gia tăng trong tiêu tiêu của chính phủ (đầu tư công).
Thông thường đối với các khoản đầu tư công gia tăng nếu không được hỗ trợ bằng việc gia tăng từ thuế thì một cách phổ biến là các chính phủ phải sẽ phải dụng nợ vay để tài trợ. Gia tăng nhu cầu vay nợ, tăng cầu tiều là nguyên nhân cơ bản làm tăng lãi suất (chi phí phải trả cho vay nợ), từ đó gây tác động sụt giảm trong đầu tư của khu vực tư nhân (Lãi suất đi vay cao >>> Chi phí gia tăng >>> Lợi nhuận sụt giảm)
Trong dài hạn, sự sụt giảm trong đầu tư tư nhân có thể tạo những tác động nghiêm trọng tới việc ổn định sản lượng tiềm năng của nền kinh tế.
- Một số lý thuyết cho rằng việc gia tăng đầu tư công có kiểm soát và chọn lọc thông qua việc chính phủ mở rộng khu vực sản xuất tư bằng các chính sách ưu đãi hoặc kích thích đầu tư đối với tư nhân. Như vậy lúc này, việc chính phủ gia tăng chi tiêu trong khu vực công không những không gây ra sự chèn lấn cho đầu tư tư nhân mà còn có tác dụng kích thích một hiệu ứng đầu tư cùng chiều (“crowding in” hay hiệu ứng “gia tốc” – “accelerator effect”
- Bên cạnh đó, trên lý thuyết thì hiệu ứng chèn lấn có thể giảm thiểu bằng việc gia tăng chi tiêu công kết hợp với in tiền. Việc in thêm tiền (tăng cung tiền để ổn định lãi suất), trên thực tế thường gây ra tình trạng lạm phát trong nền kinh tế.
Increased government borrowing tends to increase market interest rates. The problem is that the government can always pay the market interest rate, but there comes a point when corporations and individuals can no longer afford to borrow.
Read more: http://www.investopedia.com/terms/c/crowdingouteffect.asp#ixzz1m2uBtxQJ
Trong một bài viết của TS Vũ Quang Đông "lãi suất khi nào giảm?" có đề cập đến hiệu ứng chèn lấn để dự đoán khả năng giảm lãi suất theo tuyên bố của các vị đứng đầu chính phủ. Việc giảm lãi suất theo CPI là hoàn toàn đúng với lý thuyết nhưng khi nào giảm, liệu có giảm liền khi CPI về mức 1 con số, lãi suất chịu tác động cả cung tiền, những thứ lằng nhằng khác và lạm phát kỳ vọng. Yếu tố lạm phát kỳ vọng đóng một vài trò rất rất lớn, liệu lãi suất có giảm được ngay khi người dân chưa thật tin tưởng khả năng giữ mức CPI thấp trong một thời gian đủ dài? Ngoài ra, nếu không khéo CP nhanh nhảy tăng đầu tư công khi thấy lạm phát về 1 con số có thể gay ra hiệu ứng lấn át, vì khi đó nền kinh tế vừa thoát ra khỏi những khó khăn, ngân sách chịu thâm hụt triền miên vì nguồn thu thuế giảm, để gia tăng đầu tư công không còn cách nào khác là phải huy động thông qua bonds khi đó, chính nhu cầu vay nợ của chính phủ sẽ đẩy mặt bằng lãi suất lên cao, một lần nữa ảnh hưởng xấu đến đầu tư cá thể, ảnh hưởng đến tiêu dùng của người dân, và một lần nữa rơi vào "vòng lẩn quẩn"....
Thông thường đối với các khoản đầu tư công gia tăng nếu không được hỗ trợ bằng việc gia tăng từ thuế thì một cách phổ biến là các chính phủ phải sẽ phải dụng nợ vay để tài trợ. Gia tăng nhu cầu vay nợ, tăng cầu tiều là nguyên nhân cơ bản làm tăng lãi suất (chi phí phải trả cho vay nợ), từ đó gây tác động sụt giảm trong đầu tư của khu vực tư nhân (Lãi suất đi vay cao >>> Chi phí gia tăng >>> Lợi nhuận sụt giảm)
Trong dài hạn, sự sụt giảm trong đầu tư tư nhân có thể tạo những tác động nghiêm trọng tới việc ổn định sản lượng tiềm năng của nền kinh tế.
- Một số lý thuyết cho rằng việc gia tăng đầu tư công có kiểm soát và chọn lọc thông qua việc chính phủ mở rộng khu vực sản xuất tư bằng các chính sách ưu đãi hoặc kích thích đầu tư đối với tư nhân. Như vậy lúc này, việc chính phủ gia tăng chi tiêu trong khu vực công không những không gây ra sự chèn lấn cho đầu tư tư nhân mà còn có tác dụng kích thích một hiệu ứng đầu tư cùng chiều (“crowding in” hay hiệu ứng “gia tốc” – “accelerator effect”
- Bên cạnh đó, trên lý thuyết thì hiệu ứng chèn lấn có thể giảm thiểu bằng việc gia tăng chi tiêu công kết hợp với in tiền. Việc in thêm tiền (tăng cung tiền để ổn định lãi suất), trên thực tế thường gây ra tình trạng lạm phát trong nền kinh tế.
Investopedia explains 'Crowding Out Effect'
Governments often borrow money (by issuing bonds) to fund additional spending. The problem occurs when government debt 'crowds out' private companies and individuals from the lending market.Increased government borrowing tends to increase market interest rates. The problem is that the government can always pay the market interest rate, but there comes a point when corporations and individuals can no longer afford to borrow.
Read more: http://www.investopedia.com/terms/c/crowdingouteffect.asp#ixzz1m2uBtxQJ
Trong một bài viết của TS Vũ Quang Đông "lãi suất khi nào giảm?" có đề cập đến hiệu ứng chèn lấn để dự đoán khả năng giảm lãi suất theo tuyên bố của các vị đứng đầu chính phủ. Việc giảm lãi suất theo CPI là hoàn toàn đúng với lý thuyết nhưng khi nào giảm, liệu có giảm liền khi CPI về mức 1 con số, lãi suất chịu tác động cả cung tiền, những thứ lằng nhằng khác và lạm phát kỳ vọng. Yếu tố lạm phát kỳ vọng đóng một vài trò rất rất lớn, liệu lãi suất có giảm được ngay khi người dân chưa thật tin tưởng khả năng giữ mức CPI thấp trong một thời gian đủ dài? Ngoài ra, nếu không khéo CP nhanh nhảy tăng đầu tư công khi thấy lạm phát về 1 con số có thể gay ra hiệu ứng lấn át, vì khi đó nền kinh tế vừa thoát ra khỏi những khó khăn, ngân sách chịu thâm hụt triền miên vì nguồn thu thuế giảm, để gia tăng đầu tư công không còn cách nào khác là phải huy động thông qua bonds khi đó, chính nhu cầu vay nợ của chính phủ sẽ đẩy mặt bằng lãi suất lên cao, một lần nữa ảnh hưởng xấu đến đầu tư cá thể, ảnh hưởng đến tiêu dùng của người dân, và một lần nữa rơi vào "vòng lẩn quẩn"....
Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2012
Ý tưởng quản bá ck khu vực ASEAN, VN góp 30 CP hàng đầu
Làm trong nghề chứng khoán, nghe những tin này thật thích thú.
Vấn đề còn lại là những nhà tổ chức, các vị chịu trách nhiệm triển khai phải thật sự cố gắng, làm cho ra khoai ra ngô chứ đừng nên làm cho lấy có, để thị trường chứng khoán sớm trở về kênh huy động vốn chính cho nền kinh tế.
http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/chung-khoan/2012/02/30-co-phieu-viet-niem-yet-o-thi-truong-asean/
Vấn đề còn lại là những nhà tổ chức, các vị chịu trách nhiệm triển khai phải thật sự cố gắng, làm cho ra khoai ra ngô chứ đừng nên làm cho lấy có, để thị trường chứng khoán sớm trở về kênh huy động vốn chính cho nền kinh tế.
http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/chung-khoan/2012/02/30-co-phieu-viet-niem-yet-o-thi-truong-asean/
Tiếp tục khuyến khích nông nghiệp
Tôi rất phấn khích khi thấy nhà nước dần dần nhận ra điểm mạnh của mình. Những thứ không phải thế mạnh của mình mà một thời ngộ nhận và muốn phát triển cho bằng được dần dần trở nên xa vời. VN với 70% dân làm nông nghiệp, đóng góp 16.1%GDP, và là ngành cứu nền kinh tế VN trong 2011 khi các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ đều có tăng trưởng chậm lại chỉ còn nông nghiệp là điểm sáng.
Nông nghiệp giúp mang lại nguồn ngoại tệ khá lớn khi xuất khẩu liên tục tăng qua các năm.
Điểm mặt chính sách:
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho Agribank, MDB, MHB, LPB, và quỹ tín dụng nhân dân = 1/5 so với tỷ lệ bình thường của từng loại kỳ hạn tiền gởi. (Tham khảo quá khứ đã áp dụng 1 lần: http://cafef.vn/20101209050350776CA34/giam-manh-ty-le-du-tru-bat-buoc-doi-voi-1-quy-tin-dung-va-4-ngan-hang.chn)
- Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng nông nghiệp năm 2012 là...., cao hơn so với các lĩnh vực khác (...)
còn tiếp...
Nông nghiệp giúp mang lại nguồn ngoại tệ khá lớn khi xuất khẩu liên tục tăng qua các năm.
Điểm mặt chính sách:
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho Agribank, MDB, MHB, LPB, và quỹ tín dụng nhân dân = 1/5 so với tỷ lệ bình thường của từng loại kỳ hạn tiền gởi. (Tham khảo quá khứ đã áp dụng 1 lần: http://cafef.vn/20101209050350776CA34/giam-manh-ty-le-du-tru-bat-buoc-doi-voi-1-quy-tin-dung-va-4-ngan-hang.chn)
- Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng nông nghiệp năm 2012 là...., cao hơn so với các lĩnh vực khác (...)
Ngành nông nghiệp đã cứu đất nước này --> TS Đặng Kim Sơn
còn tiếp...
Thứ Năm, 2 tháng 2, 2012
Định giá doanh nghiệp - những góc nhìn
Giống như mua bán bất cứ hàng hóa gì, việc mua bán công ty cũng dựa trên nguyên tắc “thuận mua vừa bán”. Nguyên tắc này hóa ra không đơn giản chút nào vì doanh nghiệp là một “hàng hóa” đặc biệt, không thể cân đong đo đếm một cách dễ dàng và chính xác. Định giá doanh nghiệp là một đề tài lớn trong tài chính vì công tác này không chỉ giúp xác định giá mua bán doanh nghiệp, mà còn phục vụ nhiều mục đích khác như giúp các tổ chức tài chính quyết định mức tín dụng sẽ cấp cho doanh nghiệp, giúp các nhà đầu tư đánh giá hiệu quả của ban giám đốc công ty, giúp tòa án ra phán quyết dàn xếp các vụ kiện tụng …
Nhiều sách giáo khoa và cẩm nang về tài chính doanh nghiệp thường phân loại các phương pháp định giá khác nhau thành ba nhóm: định giá căn cứ vào lợi nhuận, định giá căn cứ vào tài sản, và định giá căn cứ vào thị trường. Tuy nhiên, cách phân loại này đôi khi trùng lắp và khó phân biệt ưu điểm, nhược điểm của từng phương pháp. Để thuận tiện cho việc tìm hiểu định giá, bài viết này tập trung vào kiểu phân loại thành hai cách tiếp cận chính. Thứ nhất là định giá bằng ngân lưu chiết khấu (discounted cash flow – DCF). Thứ hai là định giá bằng so sánh (relative valuation).
Định giá bằng ngân lưu chiết khấu
Theo cách tiếp cận này, mỗi doanh nghiệp đều có một giá trị thực chất (intrinsic value) có thể ước tính được dựa vào những đặc tính của doanh nghiệp xét về ngân lưu (hay dòng tiền), tốc độ tăng trưởng và rủi ro. Vì ta cần biết giá trị của doanh nghiệp (GTDN) cho các mục đích giao dịch hiện tại, các ngân lưu kỳ vọng của doanh nghiệp được quy về hiện tại. Cụ thể hơn, ta có thể tính được GTDN bằng cách chiết khấu các ngân lưu kỳ vọng của doanh nghiệp ở tỷ lệ chiết khấu phù hợp. Công thức sau tóm tắt cách tính đó:
trong đó: CFt = ngân lưu kỳ vọng ở thời kỳ t; r = tỷ lệ chiết khấu
Có mấy điểm cần lưu ý trong công thức trên. Thứ nhất là từ “kỳ vọng”; cần có cơ sở xác đáng và kỹ thuật đáng tin cậy để dự báo tương lai của doanh nghiệp. Thứ hai, tỷ lệ chiết khấu phải thể hiện chi phí cơ hội của các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng, chứ không nên dùng một con số võ đoán như 10% hay 15%. Thông thường, tỷ lệ chiết khấu nên là chi phí vốn bình quân gia quyền (weighted average cost of capital – WACC), tức là chi phí của những nguồn vốn khác nhau mà doanh nghiệp sử dụng, được tính trọng số theo tỷ lệ giá trị thị trường của những nguồn vốn đó. Ngoài ra, tỷ lệ chiết khấu có thể không cố định, mà sẽ thay đổi theo thời gian. Thứ ba, trên đây chỉ là công thức DCF căn bản nhất; tùy theo đặc điểm (tốc độ, giai đoạn) tăng trưởng của doanh nghiệp, công thức trên có thể có những biến thể phức tạp hơn không thể trình bày trong khuôn khổ bài viết này.
Những quan niệm sai lầm về định giá
Nguồn: Aswath Damodaran, On Valuation. |
Do căn cứ vào những đặc điểm nền tảng của doanh nghiệp, DCF là cách định giá rất được ưa chuộng vì được xem là khoa học nhất. Nếu làm đúng, cách định giá DCF cho ra những kết quả “khách quan” ít phụ thuộc vào tâm lý và cảm nhận trên thị trường. Tuy nhiên, cách định giá DCF có thể trở nên chủ quan nếu chuyên viên định giá biến báo số liệu (ví dụ như tỷ lệ chiết khấu) để đạt kết quả mình muốn. Ngoài ra, cách này cần phải có nhiều thông tin mà không dễ thu thập trong một thị trường chưa hoàn hảo.
Định giá bằng so sánh
Nói đơn giản, cách tiếp cận này giả định rằng giá trị thực chất của doanh nghiệp không thể (hoặc gần như không thể) ước tính được, do đó GTDN là bất cứ mức nào mà thị trường đánh giá là xứng đáng với doanh nghiệp. Theo đó, GTDN có thể được xác định bằng cách so sánh với những doanh nghiệp tương tự trong thị trường.
Để định giá theo cách này, ta cần tìm những công ty có đặc tính tương tự và đã được xác định giá trị thị trường. (Thông thường, ta chọn những công ty tương tự cùng ngành, nhưng cũng có thể so sánh những doanh nghiệp khác ngành với nhau miễn là chúng có những đặc điểm giống nhau về rủi ro, tăng trưởng và ngân lưu.) Sau đó, ta đổi những giá trị thị trường đó sang những giá trị chuẩn hóa vì không thể so sánh giá trị tuyệt đối; quá trình này tạo ra những bội số giá (price multiple). Có bốn loại bội số. Thứ nhất là bội số dựa vào lợi nhuận, ví dụ như tỷ số giá / lợi nhuận (còn gọi là tỷ số P/E, được dùng rất phổ biến), tỷ số GTDN / lợi nhuận trước thuế và lãi vay, tỷ số giá trị / ngân lưu. Thứ hai là bội số dựa vào giá trị sổ sách, ví dụ như tỷ số GTDN / giá trị sổ sách của tài sản, tỷ số giá / giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu. Thứ ba là bội số dựa vào doanh thu, ví dụ như tỷ số giá / doanh số trên mỗi cổ phần, tỷ số GTDN / doanh số. Thứ tư là các bội số tùy theo đặc điểm ngành, ví dụ như giá/kwh, giá/tấn thép … Cuối cùng, so sánh bội số của doanh nghiệp đang được định giá với bội số của các công ty tương tự. Ví dụ, nếu các công ty tương tự có tỷ số P/E bằng 5, thì có thể xem giá trị của doanh nghiệp đang được định giá gấp 5 lần lợi nhuận (trên mỗi cổ phần) của doanh nghiệp đó.
Định giá ở Trung Quốc Bộ Tài chính chuẩn y ba cách định giá tài sản. Thứ nhất là dùng các bội số so sánh. Nhưng cách này chưa phổ biến vì thị trường chưa có đủ dữ liệu do các doanh nghiệp còn miễn cưỡng về việc công khai thông tin. Thứ hai và phổ biến nhất là định giá trên cơ sở chi phí thay thế có khấu hao. Cách tiếp cận này xét đến chi phí tái tạo hoặc thay thế tài sản được định giá tương ứng với giá thị trường hiện tại của tài sản tương tự. Thứ ba là DCF, phương pháp chưa phổ biến lắm. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được định giá ở mức tài sản ròng (= tổng tài sản – tổng nợ). Ở Trung Quốc có một niềm tin ăn sâu cho rằng nếu DNNN được bán với giá thấp hơn mức tài sản ròng, thì tài sản công đã bị ăn cắp trong quá trình đó. Nguồn: Paul Brown & Brett Shadbolt, Revolution in China Valuations; Chris Devonshire-Ellis,Purchasing State-Owned Enterprises. |
Cách định giá bằng so sánh này sử dụng ít thông tin hơn và dễ phản ánh tâm lý và cảm nhận trên thị trường hơn phương pháp DCF. Tuy nhiên, cần phải có một tập hợp lớn gồm nhiều công ty có thể so sánh được với doanh nghiệp đang được định giá, và những công ty đó đã được định giá. Đây có thể là trở ngại lớn những thị trường đang chuyển tiếp, còn non trẻ.
Nên chọn cách nào?
Trả lời: tùy loại hình doanh nghiệp và tính chất ngành, và tùy vào việc ta có thể thu thập được những thông tin gì. Với những công ty phải chi tiêu đầu tư khá lớn ban đầu, trước mắt chưa có nguồn thu, nhưng có triển vọng tăng trưởng lớn về lâu dài (ví dụ các hãng truyền hình cáp như Time-Warner và Telecommunications Inc.), có lẽ tốt hơn là dùng cách DCF. Hay như Amazon.com năm 2002 có doanh số gần 4 tỷ đô-la nhưng không có một xu lợi nhuận nào (thực ra là đã không có lợi nhuận từ khi thành lập năm 1995) nên không thể dùng bội số dựa vào lợi nhuận. Vả lại, Amazon.com là loại công ty hoàn toàn mới, không giống với những công ty kiểu truyền thống nên khó mà định giá bằng so sánh.
Tính chất của công ty cũng có thể đưa đến những cách tính rất đặc thù, ví dụ như định giá dựa vào số lượng khách hàng đăng ký sử dụng dịch vụ. Giả dụ America Online (AOL) có 6 triệu khách dùng dịch vụ Internet, trung bình mỗi người xài AOL trong 30 tháng và chi tiêu 20 đô-la/tháng. Giá trị của AOL có thể tính là 6 triệu x $20 x 30 = 3,6 tỷ đô-la. Cách định giá này thường được dùng với các hãng truyền hình cáp và công ty điện thoại di động. Ví dụ, Continental Cablevision đã được mua với giá 2000 đô-la / khách hàng đăng ký sử dụng.
Không có phương pháp hay công thức định giá nào đủ “thần thông” để tính chính xác giá trị của doanh nghiệp. Thông thường, nếu có thể thì nên kết hợp nhiều phương pháp khác nhau, rồi cân đối các kết quả thu được để có thước đo xác đáng về giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, cần lưu ý rằng hai cách tiếp cận nêu trên chỉ mới định giá khía cạnh tài chính của doanh nghiệp. Tất nhiên những giá trị phi tài chính, hay thường gọi là tài sản vô hình, chiếm một phần khá lớn trong giá trị doanh nghiệp. Những giá trị đó cần được cân nhắc khi định giá, nhưng là một đề tài lớn khác, không thể bàn hết trong bài này.
Trích từ tập sách “Một góc nhìn kinh doanh“(trang 21-26), NXB Trẻ 2005. Bài gốc đăng trênThời Báo Kinh Tế Sài Gòn, ngày 20/5/2004
Le Hồng Giang
"What is a cynic? A man who knows the price of everything and the value of nothing." - Oscar Wilde
0.
Hàng nghìn năm qua các nhà hiền triết, trí giả Đông-Tây đã không ngừng thắc mắc và đi tìm lời giải cho khái niệm "value", dù là thứ value trừu tượng như trong câu nói nổi tiếng bên trên của Oscar Wilde hay chỉ đơn giản là khái niệm value trần tục của một cây bút chì nhỏ bé. Cũng trong hàng nghìn năm đó, triệu triệu thứ dân, con buôn, thợ thuyền băn khoăn về "price" của một ổ bánh mì hay một mảnh vải mà họ mua bán hàng ngày, chẳng hề biết hoặc quan tâm "value" của chúng là gì. Họ, những tiện dân nhỏ bé và có phần cynic đó, trong gần suốt chiều dài lịch sử bị cho là những con kiến sống theo bản năng - bản năng mặc cả đến từng xu, tiết kiệm từng đồng, bản năng mua gian bán lận, đầu cơ tích trữ. Không ít lần trong lịch sử, một thiểu số có authority trong tay - có thể là một ông tộc trưởng, một ông vua, ông giáo hoàng, hay ông tổng bí thư - áp đặt những value mà họ cho là đúng lên đàn kiến đó. Mỗi triều đại, mỗi học thuyết trôi qua thường đem theo khái niệm "value" của họ đi vào quá khứ, nhưng "price" của những hàng hóa luân chuyển tự do trên thị trường vẫn tuân theo qui luật "thuận mua vừa bán" ngay cả trong những ngày tháng mông muội ngăn sông cấm chợ hay trong đỉnh điểm của cơn sốt vàng, sốt hoa tulip.
1.
Ở cuối thời kỳ đồ đá một người đàn ông nguyên thủy chắc chắn đã biết một con dao bằng đồng có giá trị hơn nhiều một mũi giáo bằng đá mà cha ông anh ta sở hữu. Một đổi một giữa dao đồng và giáo đá chắc chắn không phải là "thuận mua vừa bán" cho dù anh ta có thể còn chưa biết đếm phải mất bao nhiêu ngày mới rèn được một con dao như vậy và cũng chẳng có sổ sách gì để ghi lại bao nhiêu đồng, bao nhiêu củi lửa đã tiêu tốn. Đã có những bằng chứng khảo cổ học và nhân chủng học (anthopology) cho thấy trao đổi hàng hóa trong những năm tháng sơ khai đó dù chỉ dựa vào goodwill của các bên cũng đã có những tính toán thiệt hơn. Nghĩa là trong những cuộc trao đổi hàng hóa đó người nguyên thủy đã bắt đầu có khái niệm "fair value" đối nghịch với "exchange value" (cách nói khác của price), và đã cảm thấy "unfair" nếu exchange value không phản ánh đúng fair value mà họ cảm nhận.
Nhưng lịch sử có không ít những giai đoạn đầy bạo lực, cưỡng ép, lọc lừa nên ước mong quân bình hai khái niệm value này không dễ thực hiện, thông thường bên yếu thế hơn sẽ bị thiệt trong những cuộc trao đổi không hoàn toàn "thuận mua vừa bán". Tất nhiên số đông yếu thế đó luôn mong ước về một xã hội có justice, fairness và những khái niệm này dần dần đã được các nhà hiền triết cổ đại như Socrates, Plato, Aristotle định hình rõ ràng hơn trong hệ thống triết học của họ. Với quá trình tiến hóa như vậy không có gì ngạc nhiên khi Aristotle cho rằng value của một vật phải là "value of use" (VoU), nghĩa là mức độ hữu dụng của nó trong con mắt của người chủ sở hữu. Một ngọn giáo có thể có value gần như bằng không với một anh nông dân, ngược lại một người thợ săn sẽ chẳng đổi một con thú nhỏ lấy một cái cầy. Value (of use) từ Aristotle trở về trước do demand - hay phía thụ hưởng - quyết định. Sẽ chẳng có labour content hay marginal cost nào trong một cục đá tình cờ có cạnh sắc mà người nguyên thủy chợt nhận ra nó có thể giúp họ chặt cây dễ dàng hơn.
Tất nhiên lịch sử không dừng lại ở đó và khái niệm value cũng vậy. Cùng với sự phân công lao động, chuyên môn hóa và trao đổi hàng hóa, một nhóm người không ngừng tích trữ của cải, quyền lực, trí thức và để lại đại bộ phận nhân loại ở lại phía sau tiếp tục lam lũ kiếm ăn, gò lưng đóng thuế, trả nợ. Với những mối liên hệ kinh tế xã hội ngày càng phức tạp và trọng tâm quyền lực dịch chuyển dần về phía các điền chủ, thương gia, nhà tư bản, khái niệm value cũng dịch chuyển dần sang phía supply. Hai thiên niên kỷ sau Aristotle, Adam Smith đã khẳng định rằng "real price" - tương đương với value - của một vật phải phản ánh "toil and trouble" mà người làm ra nó bỏ ra. Nghĩa là value từ một khái niệm subjective theo Aristotle đã trở thành objective theo Smith, value tồn tại bên ngoài ý thức của con người - một quan điểm rất "duy vật biện chứng". Tuy nhiên Adam Smith không từ bỏ hẳn demand side, ông vẫn cho rằng value của một vật tuy đo bằng "labor-value" để làm ra nó nhưng bản thân vật thể đó được làm ra chỉ khi nó "desirable" với con người.
Trong một thế kỷ sau Adam Smith, David Ricardo rồi Karl Marx tiếp tục phát triển phát triển khái niệm value này thành một lý thuyết đồ sộ (Labor Theory of Value). Rồi chỉ một ý tưởng nhỏ của nó (surplus value) đã giúp vài lãnh tụ cách mạng trong thế kỷ 20 kéo theo những đàn kiến bình dân đấu tranh lật đổ nhiều trật tự xã hội để lập lại "justice", i.e. xóa bỏ bóc lột với ý nghĩa phân bổ lại phần surplus value trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên sẽ rất bất công cho LTV khi nhiều người nhìn nó qua lăng kính của Lenin, hoặc tệ hơn lăng kính của Stalin/Mao, mà không nhận thấy đó là một cố gắng của nhiều thế hệ học giả nhằm hệ thống hóa khái niệm value một cách khoa học, nhu cầu tri thức tất yếu trong xu hướng phát triển nhận thức từ subjectivism sang objectivism trong thế kỷ 18-19. Nhưng dù hiểu theo cách của Aristotle, Adam Smith, hay Karl Marx, value cho đến thời điểm đó vẫn là một khái niệm trừu tượng xoay quanh ước mong justice/fairness, hay khía cạnh đạo đức của một cơ chế tổ chức xã hội. Những nhà tư tưởng đó hiểu rằng trên thực tế price, hay exchange value, có thể khác rất xa fair value vì những qui ước, định chế, hay thậm các chí ngẫu nhiên lịch sử.
2.
Trong lý thuyết tài chính có 2 cách đánh giá giá trị cổ phiếu (equity valuation) khá phổ biến. Cách thứ nhất sử dụng discounted cashflow model (DCF), cách thứ hai là book value multiple (BVM). Với DCF giá trị của một cổ phiếu là tổng của những lợi ích trong tương lai mà nó đem lại cho chủ sở hữu, trong khi BVM đánh giá giá trị dựa vào những gì đã được tích tụ và ghi nhận trên sổ sách của một công ty. Có thể thấy đằng sau DCF là ý tưởng VoU của Aristotle còn BVM có hơi hướng LVT của Smith/Marx, một đằng nhìn về những lợi ích trong tương lai, một đằng tổng kết lại những gì đã xảy ra trong quá khứ. Nhưng khác với các triết gia và các kinh tế gia vẫn đang bất đồng về cách tính value đúng nhất, giới tài chính chẳng bao giờ cãi nhau phương pháp nào là đúng cả, với họ "mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột".
Có điều để "bắt được chuột" thì những người dùng DCF hay BVM phải ngầm định một nguyên lý bất di bất dịch từ thời Aristotle cho đến Adam Smith: price của một asset có khuynh hướng mean-reverting xung quanh "fair value". Nghĩa là dù cổ phiếu được định giá bằng DCF hay BVM nhà đầu tư sẽ "sell" nếu price lớn hơn value và "buy" trong trường hợp ngược lại. Tuy nhiên lực đẩy nào làm price phải quay về với value? Aristotle không có câu trả lời thỏa đáng chỉ viện dẫn ethics hay justice ra để hi vọng những người tin vào tư tưởng của mình sẽ không quá tham khi bán một vật với giá cao hơn value của nó, hoặc ngược lại không mua với giá thấp hơn value. Adam Smith, nhìn nhận bản chất "tham lam" của con người, tiến thêm một bước khi viện dẫn invisible hands sẽ đẩy price về gần với value. Chính khái niệm invisible hand này, ngầm định sự tương tác giữa demand và supply, đã đưa Smith vào vị trí ông tổ của kinh tế học hiện đại. Karl Marx có lẽ bi quan hơn cho rằng hệ thống quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản sẽ không bao giờ quân bình price với value, do đó sẽ cần phải thay đổi hệ thống này bằng bạo lực cách mạng của giai cấp vô sản. Sau khi lật đổ giai cấp tư bản thống trị, Marx cho rằng hệ thống giá cả trong nền kinh tế sẽ được qui định bởi một central planner, là người/cơ quan tính toán value của tất cả các loại hàng hóa dịch vụ theo LVT của ông. Liên xô và các nước XHCN sau này đã có một cơ quan như vậy.
Những người có kinh nghiệm làm valuation biết rõ DCF và BVM thường cho kết quả khác nhau rất xa, ngay cả khi dùng một mô hình nhưng với các giả định khác nhau (growth rate, discount rate, multiple...) cũng sẽ ra các "fair value" khác nhau. [Tất nhiên mỗi nhà đầu tư phải có fair value của riêng mình chứ không thì làm sao có người mua và người bán]. Điều này cho thấy dù khái niệm value có thể hoàn toàn objective về mặt lý thuyết như mong muốn của Marx, trên thực tế không bao giờ có thể xác định được value của một vật mà không bị ảnh hưởng bởi subjective judgement. Điều này cũng phù hợp với tính chất subjective của khái niệm justice hay fairness, nghĩa là nếu hai người khác nhau có quan điểm về justice khác nhau thì rõ ràng họ phải có fair value của một vật khác nhau. Ở một khía cạnh khác, việc áp đặt value system của mình cho người khác là một hành động unjust/unfair trái ngược với mong muốn justice ban đầu (e.g. quân bình giá với value). Nhưng ngay cả nếu bỏ qua những mâu thuẫn này, liệu justice/fairness có nhất thiết là điều kiện tiên quyết để định hình một hệ thống giá cả không?
3.
Trên tiêu đề các văn bản hành chính của VN có dòng chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc". Khẩu hiệu này phản ánh nguyện vọng của dân tộc VN được chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, có lẽ đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị. Nhiều dân tộc khác cũng thể hiện tâm nguyện của mình qua một hình thức tripartite motto như vậy: "Liberté, Égalité, Fraternité" của Cách mạng Pháp, "Life, liberty, and the pursuit of happiness" của Thomas Jefferson, hay "Peace, Land, and Bread" của Lenin. Có thể thấy nguyện vọng của đa số nhân loại luôn đặt justice lên hàng đầu nhưng không phải là duy nhất. Bên cạnh justice con người luôn có mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn cả về tinh thần lẫn vật chất. Cái mong muốn vật chất đó đã được Amartya Sen, một nhà học giả lớn của thế kỷ 20, đưa vào khái niệm "freedom of choice" như là mục tiêu căn bản của quá trình phát triển kinh tế cho bất kỳ một dân tộc nào. Theo Sen, con người không chỉ cần freedom theo nghĩa chính trị mà họ phải đạt được freedom trong tất cả những nhu cầu kinh tế của mình. Freedom, hiểu theo nghĩa vượt ra ngoài phạm vi justice này, thực ra đã được Marx đề cập đến từ thế kỷ 19 dù bị phê phán là Utopian. Trong khi Sen trông chờ vào economic development thông qua invisible hand của Adam Smith để đạt đến freedom of choice, Marx chỉ tin rằng một central planner mới có thể phân bổ lại surplus value để thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho dù theo quan điểm của Sen/Smith hay Marx, phân bổ hợp lý nguồn lực nền kinh tế để có tăng trưởng lâu dài là điều kiện tiên quyết cho (economic) freedom of choice.
Như vậy bên cạnh nhu cầu justice, một hệ thống giá cả hợp lý - theo nghĩa phản ánh fair value - có thể còn cần thiết cho nhu cầu phát triển thông qua "optimum allocation of resources". Với Marx, hai mục tiêu này tương đồng vì một (socialist) central planner chỉ cần "set price" theo đúng LTV là tự khắc cả justice lẫn (resource allocation) efficiency sẽ đạt được. Adam Smith cũng tin tưởng cả hai mục tiêu này có thể đạt được đồng thời thông qua invisible hand mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nước hay một central power nào khác. Tuy nhiên một trong những tín đồ của invisible hand, Vilfredo Pareto, không đồng ý với Smith khi nhận thấy 80% đất canh tác của Italy đầu thế kỷ 20 chỉ do 20% dân số nước này kiểm soát - một outcome có thể nói rất unjust với nhiều người dù có thể efficient. Justice xét cho cùng phụ thuộc vào quan điểm và ý thức hệ của từng cá nhân, bởi vậy một quá trình resource allocation để đạt được efficiency có thể just với người này nhưng sẽ là unjust với người khác. Khái niệm Pareto efficiency trong kinh tế học sau này là một thừa nhận của trường phái invisible hand rằng hai mục tiêu justice và efficiency không phải lúc nào cũng tương đồng. Invisible hand hay free market nếu có đạt được efficiency vẫn có lúc cần phải có một hệ thống income redistribution để đảm bảo justice ở một mức độ nào đó cho toàn xã hội.
Nhưng (economic) freedom of choice không chỉ dừng ở efficiency, ngay trong thế kỷ 19 một học giả nổi tiếng khác là Thomas Malthus đã đưa ra một khái niệm được biết đến trong thế kỷ 21 với cái tên "sustainability". Malthus khá bi quan vào invisible hand khi cho rằng dù efficiency có đạt được, natural resource của trái đất không thể đáp ứng đủ lòng tham vô đáy của con người. Đến một lúc nào đó free market sẽ phải nhờ đến chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh để giải quyết vấn đề sustainability này. Bất chấp những nỗ lực của các nhà chính trị, kinh tế cố gắng đưa ra các giải pháp như Kyoto Protocol hay carbon tax, nhiều doomsayer vẫn cho rằng supply/demand sẽ không thể giải quyết được những nguy cơ quá tải dạng Malthus và văn minh nhân loại có nguy cơ bị xóa sổ. Chưa cần biết "the truth" có thực sự "inconvenient" như vậy hay không, những người như Thomas Malthus hay Al Gore đã chỉ ra rất chính xác một thách thức quan trọng khác cho một hệ thống kinh tế bên cạnh hai mục tiêu justice và efficiency. Liệu một hệ thống fair value với mỗi loại hàng hóa được xác định bằng "oil unit" hay "carbon unit" thay vì "labour unit" như LTV của Smith/Marx có giải quyết được thách thức này hay không?
(Còn tiếp)
0.
Hàng nghìn năm qua các nhà hiền triết, trí giả Đông-Tây đã không ngừng thắc mắc và đi tìm lời giải cho khái niệm "value", dù là thứ value trừu tượng như trong câu nói nổi tiếng bên trên của Oscar Wilde hay chỉ đơn giản là khái niệm value trần tục của một cây bút chì nhỏ bé. Cũng trong hàng nghìn năm đó, triệu triệu thứ dân, con buôn, thợ thuyền băn khoăn về "price" của một ổ bánh mì hay một mảnh vải mà họ mua bán hàng ngày, chẳng hề biết hoặc quan tâm "value" của chúng là gì. Họ, những tiện dân nhỏ bé và có phần cynic đó, trong gần suốt chiều dài lịch sử bị cho là những con kiến sống theo bản năng - bản năng mặc cả đến từng xu, tiết kiệm từng đồng, bản năng mua gian bán lận, đầu cơ tích trữ. Không ít lần trong lịch sử, một thiểu số có authority trong tay - có thể là một ông tộc trưởng, một ông vua, ông giáo hoàng, hay ông tổng bí thư - áp đặt những value mà họ cho là đúng lên đàn kiến đó. Mỗi triều đại, mỗi học thuyết trôi qua thường đem theo khái niệm "value" của họ đi vào quá khứ, nhưng "price" của những hàng hóa luân chuyển tự do trên thị trường vẫn tuân theo qui luật "thuận mua vừa bán" ngay cả trong những ngày tháng mông muội ngăn sông cấm chợ hay trong đỉnh điểm của cơn sốt vàng, sốt hoa tulip.
1.
Ở cuối thời kỳ đồ đá một người đàn ông nguyên thủy chắc chắn đã biết một con dao bằng đồng có giá trị hơn nhiều một mũi giáo bằng đá mà cha ông anh ta sở hữu. Một đổi một giữa dao đồng và giáo đá chắc chắn không phải là "thuận mua vừa bán" cho dù anh ta có thể còn chưa biết đếm phải mất bao nhiêu ngày mới rèn được một con dao như vậy và cũng chẳng có sổ sách gì để ghi lại bao nhiêu đồng, bao nhiêu củi lửa đã tiêu tốn. Đã có những bằng chứng khảo cổ học và nhân chủng học (anthopology) cho thấy trao đổi hàng hóa trong những năm tháng sơ khai đó dù chỉ dựa vào goodwill của các bên cũng đã có những tính toán thiệt hơn. Nghĩa là trong những cuộc trao đổi hàng hóa đó người nguyên thủy đã bắt đầu có khái niệm "fair value" đối nghịch với "exchange value" (cách nói khác của price), và đã cảm thấy "unfair" nếu exchange value không phản ánh đúng fair value mà họ cảm nhận.
Nhưng lịch sử có không ít những giai đoạn đầy bạo lực, cưỡng ép, lọc lừa nên ước mong quân bình hai khái niệm value này không dễ thực hiện, thông thường bên yếu thế hơn sẽ bị thiệt trong những cuộc trao đổi không hoàn toàn "thuận mua vừa bán". Tất nhiên số đông yếu thế đó luôn mong ước về một xã hội có justice, fairness và những khái niệm này dần dần đã được các nhà hiền triết cổ đại như Socrates, Plato, Aristotle định hình rõ ràng hơn trong hệ thống triết học của họ. Với quá trình tiến hóa như vậy không có gì ngạc nhiên khi Aristotle cho rằng value của một vật phải là "value of use" (VoU), nghĩa là mức độ hữu dụng của nó trong con mắt của người chủ sở hữu. Một ngọn giáo có thể có value gần như bằng không với một anh nông dân, ngược lại một người thợ săn sẽ chẳng đổi một con thú nhỏ lấy một cái cầy. Value (of use) từ Aristotle trở về trước do demand - hay phía thụ hưởng - quyết định. Sẽ chẳng có labour content hay marginal cost nào trong một cục đá tình cờ có cạnh sắc mà người nguyên thủy chợt nhận ra nó có thể giúp họ chặt cây dễ dàng hơn.
Tất nhiên lịch sử không dừng lại ở đó và khái niệm value cũng vậy. Cùng với sự phân công lao động, chuyên môn hóa và trao đổi hàng hóa, một nhóm người không ngừng tích trữ của cải, quyền lực, trí thức và để lại đại bộ phận nhân loại ở lại phía sau tiếp tục lam lũ kiếm ăn, gò lưng đóng thuế, trả nợ. Với những mối liên hệ kinh tế xã hội ngày càng phức tạp và trọng tâm quyền lực dịch chuyển dần về phía các điền chủ, thương gia, nhà tư bản, khái niệm value cũng dịch chuyển dần sang phía supply. Hai thiên niên kỷ sau Aristotle, Adam Smith đã khẳng định rằng "real price" - tương đương với value - của một vật phải phản ánh "toil and trouble" mà người làm ra nó bỏ ra. Nghĩa là value từ một khái niệm subjective theo Aristotle đã trở thành objective theo Smith, value tồn tại bên ngoài ý thức của con người - một quan điểm rất "duy vật biện chứng". Tuy nhiên Adam Smith không từ bỏ hẳn demand side, ông vẫn cho rằng value của một vật tuy đo bằng "labor-value" để làm ra nó nhưng bản thân vật thể đó được làm ra chỉ khi nó "desirable" với con người.
Trong một thế kỷ sau Adam Smith, David Ricardo rồi Karl Marx tiếp tục phát triển phát triển khái niệm value này thành một lý thuyết đồ sộ (Labor Theory of Value). Rồi chỉ một ý tưởng nhỏ của nó (surplus value) đã giúp vài lãnh tụ cách mạng trong thế kỷ 20 kéo theo những đàn kiến bình dân đấu tranh lật đổ nhiều trật tự xã hội để lập lại "justice", i.e. xóa bỏ bóc lột với ý nghĩa phân bổ lại phần surplus value trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên sẽ rất bất công cho LTV khi nhiều người nhìn nó qua lăng kính của Lenin, hoặc tệ hơn lăng kính của Stalin/Mao, mà không nhận thấy đó là một cố gắng của nhiều thế hệ học giả nhằm hệ thống hóa khái niệm value một cách khoa học, nhu cầu tri thức tất yếu trong xu hướng phát triển nhận thức từ subjectivism sang objectivism trong thế kỷ 18-19. Nhưng dù hiểu theo cách của Aristotle, Adam Smith, hay Karl Marx, value cho đến thời điểm đó vẫn là một khái niệm trừu tượng xoay quanh ước mong justice/fairness, hay khía cạnh đạo đức của một cơ chế tổ chức xã hội. Những nhà tư tưởng đó hiểu rằng trên thực tế price, hay exchange value, có thể khác rất xa fair value vì những qui ước, định chế, hay thậm các chí ngẫu nhiên lịch sử.
2.
Trong lý thuyết tài chính có 2 cách đánh giá giá trị cổ phiếu (equity valuation) khá phổ biến. Cách thứ nhất sử dụng discounted cashflow model (DCF), cách thứ hai là book value multiple (BVM). Với DCF giá trị của một cổ phiếu là tổng của những lợi ích trong tương lai mà nó đem lại cho chủ sở hữu, trong khi BVM đánh giá giá trị dựa vào những gì đã được tích tụ và ghi nhận trên sổ sách của một công ty. Có thể thấy đằng sau DCF là ý tưởng VoU của Aristotle còn BVM có hơi hướng LVT của Smith/Marx, một đằng nhìn về những lợi ích trong tương lai, một đằng tổng kết lại những gì đã xảy ra trong quá khứ. Nhưng khác với các triết gia và các kinh tế gia vẫn đang bất đồng về cách tính value đúng nhất, giới tài chính chẳng bao giờ cãi nhau phương pháp nào là đúng cả, với họ "mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột".
Có điều để "bắt được chuột" thì những người dùng DCF hay BVM phải ngầm định một nguyên lý bất di bất dịch từ thời Aristotle cho đến Adam Smith: price của một asset có khuynh hướng mean-reverting xung quanh "fair value". Nghĩa là dù cổ phiếu được định giá bằng DCF hay BVM nhà đầu tư sẽ "sell" nếu price lớn hơn value và "buy" trong trường hợp ngược lại. Tuy nhiên lực đẩy nào làm price phải quay về với value? Aristotle không có câu trả lời thỏa đáng chỉ viện dẫn ethics hay justice ra để hi vọng những người tin vào tư tưởng của mình sẽ không quá tham khi bán một vật với giá cao hơn value của nó, hoặc ngược lại không mua với giá thấp hơn value. Adam Smith, nhìn nhận bản chất "tham lam" của con người, tiến thêm một bước khi viện dẫn invisible hands sẽ đẩy price về gần với value. Chính khái niệm invisible hand này, ngầm định sự tương tác giữa demand và supply, đã đưa Smith vào vị trí ông tổ của kinh tế học hiện đại. Karl Marx có lẽ bi quan hơn cho rằng hệ thống quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản sẽ không bao giờ quân bình price với value, do đó sẽ cần phải thay đổi hệ thống này bằng bạo lực cách mạng của giai cấp vô sản. Sau khi lật đổ giai cấp tư bản thống trị, Marx cho rằng hệ thống giá cả trong nền kinh tế sẽ được qui định bởi một central planner, là người/cơ quan tính toán value của tất cả các loại hàng hóa dịch vụ theo LVT của ông. Liên xô và các nước XHCN sau này đã có một cơ quan như vậy.
Những người có kinh nghiệm làm valuation biết rõ DCF và BVM thường cho kết quả khác nhau rất xa, ngay cả khi dùng một mô hình nhưng với các giả định khác nhau (growth rate, discount rate, multiple...) cũng sẽ ra các "fair value" khác nhau. [Tất nhiên mỗi nhà đầu tư phải có fair value của riêng mình chứ không thì làm sao có người mua và người bán]. Điều này cho thấy dù khái niệm value có thể hoàn toàn objective về mặt lý thuyết như mong muốn của Marx, trên thực tế không bao giờ có thể xác định được value của một vật mà không bị ảnh hưởng bởi subjective judgement. Điều này cũng phù hợp với tính chất subjective của khái niệm justice hay fairness, nghĩa là nếu hai người khác nhau có quan điểm về justice khác nhau thì rõ ràng họ phải có fair value của một vật khác nhau. Ở một khía cạnh khác, việc áp đặt value system của mình cho người khác là một hành động unjust/unfair trái ngược với mong muốn justice ban đầu (e.g. quân bình giá với value). Nhưng ngay cả nếu bỏ qua những mâu thuẫn này, liệu justice/fairness có nhất thiết là điều kiện tiên quyết để định hình một hệ thống giá cả không?
3.
Trên tiêu đề các văn bản hành chính của VN có dòng chữ "Độc lập - Tự do - Hạnh phúc". Khẩu hiệu này phản ánh nguyện vọng của dân tộc VN được chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, có lẽ đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị. Nhiều dân tộc khác cũng thể hiện tâm nguyện của mình qua một hình thức tripartite motto như vậy: "Liberté, Égalité, Fraternité" của Cách mạng Pháp, "Life, liberty, and the pursuit of happiness" của Thomas Jefferson, hay "Peace, Land, and Bread" của Lenin. Có thể thấy nguyện vọng của đa số nhân loại luôn đặt justice lên hàng đầu nhưng không phải là duy nhất. Bên cạnh justice con người luôn có mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn cả về tinh thần lẫn vật chất. Cái mong muốn vật chất đó đã được Amartya Sen, một nhà học giả lớn của thế kỷ 20, đưa vào khái niệm "freedom of choice" như là mục tiêu căn bản của quá trình phát triển kinh tế cho bất kỳ một dân tộc nào. Theo Sen, con người không chỉ cần freedom theo nghĩa chính trị mà họ phải đạt được freedom trong tất cả những nhu cầu kinh tế của mình. Freedom, hiểu theo nghĩa vượt ra ngoài phạm vi justice này, thực ra đã được Marx đề cập đến từ thế kỷ 19 dù bị phê phán là Utopian. Trong khi Sen trông chờ vào economic development thông qua invisible hand của Adam Smith để đạt đến freedom of choice, Marx chỉ tin rằng một central planner mới có thể phân bổ lại surplus value để thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho dù theo quan điểm của Sen/Smith hay Marx, phân bổ hợp lý nguồn lực nền kinh tế để có tăng trưởng lâu dài là điều kiện tiên quyết cho (economic) freedom of choice.
Như vậy bên cạnh nhu cầu justice, một hệ thống giá cả hợp lý - theo nghĩa phản ánh fair value - có thể còn cần thiết cho nhu cầu phát triển thông qua "optimum allocation of resources". Với Marx, hai mục tiêu này tương đồng vì một (socialist) central planner chỉ cần "set price" theo đúng LTV là tự khắc cả justice lẫn (resource allocation) efficiency sẽ đạt được. Adam Smith cũng tin tưởng cả hai mục tiêu này có thể đạt được đồng thời thông qua invisible hand mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nước hay một central power nào khác. Tuy nhiên một trong những tín đồ của invisible hand, Vilfredo Pareto, không đồng ý với Smith khi nhận thấy 80% đất canh tác của Italy đầu thế kỷ 20 chỉ do 20% dân số nước này kiểm soát - một outcome có thể nói rất unjust với nhiều người dù có thể efficient. Justice xét cho cùng phụ thuộc vào quan điểm và ý thức hệ của từng cá nhân, bởi vậy một quá trình resource allocation để đạt được efficiency có thể just với người này nhưng sẽ là unjust với người khác. Khái niệm Pareto efficiency trong kinh tế học sau này là một thừa nhận của trường phái invisible hand rằng hai mục tiêu justice và efficiency không phải lúc nào cũng tương đồng. Invisible hand hay free market nếu có đạt được efficiency vẫn có lúc cần phải có một hệ thống income redistribution để đảm bảo justice ở một mức độ nào đó cho toàn xã hội.
Nhưng (economic) freedom of choice không chỉ dừng ở efficiency, ngay trong thế kỷ 19 một học giả nổi tiếng khác là Thomas Malthus đã đưa ra một khái niệm được biết đến trong thế kỷ 21 với cái tên "sustainability". Malthus khá bi quan vào invisible hand khi cho rằng dù efficiency có đạt được, natural resource của trái đất không thể đáp ứng đủ lòng tham vô đáy của con người. Đến một lúc nào đó free market sẽ phải nhờ đến chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh để giải quyết vấn đề sustainability này. Bất chấp những nỗ lực của các nhà chính trị, kinh tế cố gắng đưa ra các giải pháp như Kyoto Protocol hay carbon tax, nhiều doomsayer vẫn cho rằng supply/demand sẽ không thể giải quyết được những nguy cơ quá tải dạng Malthus và văn minh nhân loại có nguy cơ bị xóa sổ. Chưa cần biết "the truth" có thực sự "inconvenient" như vậy hay không, những người như Thomas Malthus hay Al Gore đã chỉ ra rất chính xác một thách thức quan trọng khác cho một hệ thống kinh tế bên cạnh hai mục tiêu justice và efficiency. Liệu một hệ thống fair value với mỗi loại hàng hóa được xác định bằng "oil unit" hay "carbon unit" thay vì "labour unit" như LTV của Smith/Marx có giải quyết được thách thức này hay không?
(Còn tiếp)
at 12:37 AM
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
133 comments: