Liệt kê sau đây là một loạt những ngụy biện phổ
biến hay thấy ở người Việt. Những ngụy biện này có thể phân thành 7
nhóm như sau:
• Đánh tráo chủ đề: (1) Công kích cá nhân, Thứ nhất là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa.
Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của
người phát biểu. Chẳng hạn như “Ông nói là những người vô thần có đạo
đức, vậy mà chính ông là người từng li dị với vợ con,” hay “Ông là người
làm kinh tế, không biết gì về khoa học, mà nói chuyện khoa học”. Đây là
một ngụy biện, bởi vì sự thật của phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân
của người phát biểu, mà là logic của lời phát biểu. Cũng nằm trong
loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của một vật thể nào đó để
ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh học của Tây
có vài chữ mà đã quay lại chửi bới đồng nghiệp à? Anh là con công cháu
cha, anh không hiểu gì về sự nghèo khổ của chúng tôi.” (2) Lợi dụng quyền lực (ad verecundiam). Đây
là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng hay được nhiều người ái
mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng hạn như “Isaac Newton
là một thiên tài, và ông tin vào Thượng đế,” làm như ông Newton là
người có thẩm quyền để chúng ta tin vào Thượng đế. Thẩm quyền không
thuyết phục được ai; chỉ có sự thật, lí lẽ và logic mới quan trọng và có
khả năng thuyết phục. (3) Lợi dụng nặc danh. Trong
trường hợp này, người ngụy biện không nêu danh tính người có thẩm
quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền nên không ai có thể
kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một loại ngụy biện khác có
quan hệ với loại này là dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Giới
công an hay sử dụng ngụy biện này, ví dụ như “Một viên chức tình báo cho
biết chính anh từng hoạt động cho địch.” (4) Lợi dụng tác phong. Loại
ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc tính nào đó
của đối tượng để cố thuyết phục về tính hợp lí của phát biểu. Tiêu biểu
cho loại ngụy biện này là những phát biểu như “Nixon thất cử vì ông ta
thường hay ra mồ hôi trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời
khuyên của anh chàng ăn mặc bảnh bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ hôi
trên trán” chẳng có dính dáng gì đến vấn đề đang bàn thảo. (5) Luận điệu cá trích. Loại
ngụy biện này thường hay được ứng dụng khi một người nào đó đưa vào
những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang tranh luận, nhằm mục
đích đánh lạc hướng vấn đề. Ví dụ: “Anh có thể nói rằng tử hình là một
hình thức không có hiệu quả trong việc chống lại tội phạm, nhưng còn nạn
nhân của tội phạm thì sao? Gia đình của nạn nhân sẽ nghĩ gì khi họ thấy
tên sát nhân người thân của họ bị giam giữ trong nhà tù bằng đồng tiền
của chính họ. Họ có nên nuôi dưỡng những tên sát nhân như thế không?” (6) Luận điệu ngược ngạo. Bằng
chứng luôn luôn là gánh nặng của người phát biểu. Do đó, tìm cách
chuyển gánh nặng đó cho một người khác là một thủ đoạn của những người
ngụy biện. Chẳng hạn như trong câu này “Anh nói rằng ăn nhiều mỡ không
liên quan đến cholesterol, nhưng anh có thể chứng minh điều đó không?”
Đáng lẽ người phát biểu phải chứng minh, nhưng công việc đó lại được
chuyển cho người đối thoại!
• Lợi dụng cảm tính và đám đông, (7) Dựa vào bạo lực
(ad baculum). Ngụy biện dựa vào bạo lực thực chất là một sự đe dọa,
nhằm mục đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp nhận một kết luận
nào đó. Loại ngụy biện này thưởng được giới chính khách dùng, và có thể
tóm gọn bằng một câu “chân lí thuộc về kẻ mạnh”. Sự đe dọa không hẳn
chỉ xuất phát từ người phát biểu, mà có thể từ một người khác. Ví dụ như
“Những ai không tin vào chính sách của Nhà nước sẽ phải trả giá đắt”,
hay “Được rồi, tôi đã biết số điện thoại của anh và biết anh đang ở đâu.
À, tôi có nói cho anh biết là tôi mới mua một cây súng ngắn chưa nhỉ?” (8) Lợi dụng lòng thương hại
(ad misericordiam). Đây là một loại ngụy biện dựa vào lòng trắc ẩn của
người đối thoại để người đối thoại chấp nhận lí lẽ của mình. Ví dụ như
“Anh ấy không có giết người bằng búa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có
tội, anh ấy đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng tinh thần,” hay “Tôi
hi vọng anh sẽ chấp nhận đề nghị này, chúng ta đã tiêu ra ba tháng nay
để bàn rồi đấy.” (9) Lợi dụng hậu quả (ad
consequentiam). Ngụy biện loại này thường được biểu hiện qua cách phát
biểu “A hàm ý B, B là sự thật, do đó A là sự thật”. Ví dụ: “Nếu vũ trụ
được một đấng chí tôn thượng đế tạo nên, chúng ta có thể thấy những hiện
tượng được tổ chức một cách thứ tự. Và hiện tượng chung quanh chúng ta
quả rất thứ tự, vậy đấng chí tôn thượng đế chính là người tạo nên vũ
trụ,” hay “Anh phải tin vào Đảng Cộng hòa, chứ nếu không cuộc đời này sẽ
chẳng có ý nghĩa” (hay là nói một cách ngược lại: cuộc sống này chẳng
có ý nghĩa gì nếu không có Đảng cộng hòa!) (10) Lạm dụng chữ nghĩa.
Đây là một loại ngụy biện dựa vào dùng những chữ mang cảm tính cao để
gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát biểu. Chẳng hạn
như trong câu “Bất cứ một người có lương tri nào cũng phải đồng ý rằng
về Việt Nam ăn Tết là làm lợi cho cộng sản,” chữ “lương tri” được cài
vào nhằm cho người đối thoại phải nghiêng theo những người có lương tri. (11) Dựa vào quần chúng
(ad numerum). Loại ngụy biện này tin rằng nếu có nhiều người ủng hộ một
đề nghị nào đó, thì đề nghị đó phải đúng. Ví dụ như “Đại đa số người
dân trong cộng đồng ủng hộ ông Minh, vậy phát biểu của ông Minh ắt phải
đúng.”
• Làm lạc hướng vấn đề, (12) Lí lẽ chẻ đôi.
Loại ngụy biện này thường phân định một vấn đề thành hai giá trị: trắng
và đen, bạn và thù, có và không, v.v.. dù trong thực tế, có hơn hai lựa
chọn. Chẳng hạn như “Hoặc là anh hợp tác với tôi hay là anh chống tôi,
anh chọn hướng nào, yes hay là no?” (13) Lí lẽ ngờ nghệch
(ad ignorantiam). Loại ngụy biện này, như tên gọi ám chỉ, xuất phát từ
sự ngớ ngẩn. Một trong những cách nói thông thường nhất trong loại ngụy
biện này mà giới ngụy biện hay dùng là nếu một điều gì đó chưa được
chứng minh là sai (hay giả) thì điều đó là đúng (hay thật). Ví dụ: “Bởi
vì các nhà khoa học chưa chứng minh dioxin có thể gây ra dị thai, do đó
dioxin không thể gây ra dị thai,” hay kiểu lí luận của “nền kinh tế phát
triển và xã hội ổn định mấy năm nay, không có lý do gì phải cần đến dân
chủ”. (14) Lí luận lươn trạch.
Loại ngụy biện này cho rằng nếu một sự kiện xảy ra, các sự kiện có hại
khác sẽ xảy ra. Chẳng hạn như “Nếu chúng ta hợp pháp hóa cần sa, công
chúng sẽ bắt đầu hút cần sa, và chúng ta cũng sẽ phải hợp pháp hóa á
phiện. Rồi chúng ta sẽ là một quốc gia với những người ăn bám vào xã
hội. Do đó, chúng ta không thể hợp pháp hóa á marijuana”. Hay một đoạn
ví dụ khác:” Tiếc thay một cuộc cải cách về kinh tế, bình bị, tài chánh,
xã hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ: bị tan
vỡ, bị huỷ bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại việt của Vương An Thạch. Mà đau
đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi.
Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ
xã hội Trung quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung quốc sẽ là nước
hùng mạnh vô song, e rằng cứ muôn đời mặt trời vẫn nở phương Đông chứ
không ngả về Tây như hồi thế kỉ 18 cho đến nay bao giờ.” (15) Mệnh đề rời rạc.
Đây là loại ngụy biện dùng hai (hay nhiều hơn hai) mệnh đề chẳng dính
dáng gì với nhau để làm thành một phát biểu hay kết luận. Ví dụ: “Anh
ủng hộ tự do dân chủ và quyền mang vũ khí hay không?” hay “Anh đã ngưng
làm ăn trái phép chưa?” Câu hỏi sau thực ra hỏi hai vấn đề “Anh từng làm
ăn trái phép?” và “Anh đã ngừng hoạt động hay chưa?” (16) Đơn giản hóa. Đây là một loại ngụy biện mà người
phát biểu cố tình biến một quan niệm trừu tượng thành một điều cụ thể để
bắt lấy thế thượng phong trong đối thoại (nhưng là ngụy biện). Ví dụ:
“Tôi để ý thấy anh mô tả ông ta là một người quỉ quyệt. Vậy tôi hỏi anh
cái “quỉ quyệt” đó nó nằm ở đâu trong bộ não? Anh không chỉ ra được cho
tôi; do đó, tôi có thể nói cái quỉ quyệt không có thực.”
• Qui nạp sai, (17) Khái quát hóa vội vã.
Loại ngụy biện này cũng khá phổ biến. Nó dùng một ví dụ hay trường hợp
nhỏ và từ đó khái quát hóa cho một cộng đồng. Chẳng hạn như “Ông ấy là
một tay đạo đức giả. Do đó, các bạn bè của ông ấy cũng giả dối.” (18) Khái quát hóa không đúng chỗ.
Đây là loại ngụy biện mà người sử dụng chúng thường áp dụng một qui
luật chung cho một tình huống hay một cá nhân. Chẳng hạn như “Người cộng
sản là vô thần. Anh là người theo chủ nghĩa cộng sản, vậy anh chắc chắn
là một người vô thần.” (19) Kéo dài tính tương đồng.
Trong loại ngụy biện này, người dùng nó đề nghị một điều lệ chung
chung, rồi áp dụng nó cho mọi trường hợp và cá nhân. Ví dụ: “Tôi tin
rằng chống luật pháp bằng cách phạm luật pháp là một điều sai trái”, hay
“Nhưng quan điểm đó ghê tởm lắm, vì nó ám chỉ rằng anh sẽ không ủng hộ
tôi,” hay “Anh muốn nói rằng luật về mật mã cũng có tầm quan trọng tương
đương với phong trào giải phóng sao? Sao anh dám nói thế?” (20) Lí lẽ quanh co. Loại
ngụy biện này thường luẩn quẩn trong vài giả định và kết luận. Chẳng
hạn như “Những người đồng tính luyến ái nhất định không thể nắm chính
quyền. Do đó, phải tống khứ những viên chức chính phủ đồng tính luyến
ái. Vì thế, những người đồng tính luyến ái sẽ làm mọi cách để dấu diếm
hành tung của họ, và họ có nguy cơ bị tống tiền. Do vậy, những người
đồng tính luyến ái không được giữa chức vụ gì trong chính phủ.” Tức là
trong một lí giải như thế, cả hai giả thuyết và kết luận đều giống nhau. (21) Đảo ngược điều kiện. Loại
ngụy biện này thường được biểu hiện qua hình thức “Nếu A xảy ra thì B
sẽ xảy ra, do đó, nếu B xảy ra thì A sẽ xảy ra.” Ví dụ: “Nếu tiêu chuẩn
giáo dục bị hạ thấp, chất lượng tranh luận sẽ bị tồi đi. Do đó, nếu
chúng ta thấy chất lượng tranh luận suy đồi trong những năm sắp đến, thì
điều đó cho thấy tiêu chuẩn giáo dục của ta bị xuống cấp.” (22) Lợi dụng rủi ro.
Ngụy biện này thường dùng một qui luật chung và áp dụng nó cho một
trường hợp cá biệt. Ví dụ: “Luật giao thông không cho anh chạy quá 50
km/h. Cho dù cha anh sắp chết anh cũng không được chạy quá tốc độ đó.” (23) Lợi dụng trường hợp cá biệt.
Ngụy biện này thường dùng một trường hợp cá biệt để đem ra ứng dụng cho
một đám đông. Ví dụ: “Chúng ta cho phép bệnh nhân sắp chết dùng á
phiện, chúng ta nên cho phép mọi người dùng á phiện.” (24) Kết luận lạc đề.
Loại ngụy biện này thường xuất hiện khi một kết luận chẳng dính dáng gì
đến lí lẽ mà người biện luận trình bày. Một ví dụ tiêu biểu cho trường
hợp ngụy biện này là: “Độ nhiễm arsenic trong nước ở Việt Nam chưa cao
và còn trong mức độ cho phép. Dữ kiện của Bangladesh cho thấy tình trạng
nhiễm arsenic ở Việt Nam rất trầm trọng.” (25) Ngụy biện rơm.
Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm hay phát biểu
của người khác, để làm luận điểm tấn công. Đây là một ngụy biện, vì nó
không đương đầu với cái lí lẽ đang bàn. Chẳng hạn như: “Chúng ta nên ủng
hộ chế độ cưỡng bách quân dịch. Người ta không thích tòng quân vì họ
không muốn cuộc sống bị đảo lộn. Nhưng họ cần nhận thức rằng có nhiều
điều quan trọng hơn tiện nghi trong cuộc sống.”
• Nhập nhằng đánh lận con đen, (26) “Post hoc”.
Loại ngụy biện này phát biểu rằng hai sự kiện xảy ra, một trước và một
sau, có quan hệ với nhau như nguyên nhân và hậu quả. Ví dụ: “Liên Xô sụp
đổ sau khi nhà nước theo chủ nghĩa vô thần. Do đó, chúng ta phải từ bỏ
chủ nghĩa vô thần để khỏi bị suy sụp.” (27) Ảnh hưởng liên đới.
Một sự kiện được cho là có ảnh hưởng đến một sự kiện khác, nhưng thực
chất thì cả hai sự kiện đều có cùng một nguyên nhân. Đây cũng chính là
một trường hợp ngụy biện dưới dạng “post hoc”. Ví dụ: “Chúng ta đang
chứng kiến một tình trạng thất nghiệp rất cao, vì do thiếu nhu cầu của
người tiêu thụ.” (Nhưng có thể cả hai sự kiện có nguyên nhân từ tiền lời
quá cao.) (28) Ảnh hưởng không đáng kể.
Đây là một loại ngụy biện mang tính phóng đại từ một ảnh hưởng rất nhỏ.
Chẳng hạn như “Hút thuốc gây ra ô nhiễm môi trường ở Sydney” là một
phát biểu đúng, nhưng ảnh hưởng của thuốc lá đến môi trường rất khiêm
tốn khi so với ảnh hưởng của khói xe và các hãng xưởng. (29) Ảnh hưởng ngược chiều.
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả bị đảo ngược chiều để tìm đến
một kết luận mang tính ngụy biện. Ví dụ: “Ung thư gây ra thói quen hút
thuốc lá”. (30) Nguyên nhân phức tạp. Một sự kiện xảy ra có thể
do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng người ngụy biện có thể đơn giản
hóa thành một liên hệ đơn giản. Chẳng hạn như “Tai nạn xe cộ là do đường
xá xấu” có thể đúng, nhưng tai nạn cũng có thể do người lái xe ẩu trong
một điều kiện xấu. (31) Nguyên nhân sai (Non
causa pro causa). Loại ngụy biện này xảy ra khi một điều nào đó được
cho là nguyên nhân của một sự kiện, nhưng nó chưa thực sự được chứng
minh là nguyên nhân. Ví dụ: “Tôi uống một viên aspirin và cầu nguyện
thượng đế, và tôi không còn bị nhức đầu. Như vậy thượng đế đã chữa trị
tôi khỏi nhức đầu.”
• Phi logic, (32) Phi logic. Ngụy
biện phi logic thường xảy ra trong trường hợp một lí lẽ mà kết luận
được rút ra từ những tiêu đề không dính dáng gì với nhau. Chẳng hạn như
“Người Ai Cập đã từng làm nhiều khai quật để xây dựng những kim tự tháp,
họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật học.” (33) Loại bỏ tiền đề.
Ngụy biện loại này thường xảy ra dưới hình thức “nếu A thì B, không
phải A thì không phải B.” Ví dụ: “Nếu tôi ở Sydney thì tôi đang ở New
South Wales. Tôi hiện không ở Sydney, do đó, tôi không ở New South
Wales”. (34) Nhét chữ vào miệng người khác.
Đây là một loại ngụy biện bằng cách dùng kĩ thuật phỏng vấn. Một trường
hợp cổ điển là “Ông đã ngưng đánh vợ chưa?” Tức là một câu hỏi với một
giả định rằng người được hỏi từng hành hung vợ. Đây là một mẹo mà giới
luật sư thường hay dùng trong thẩm vấn. “Ông dấu tiền ăn cắp đó ở đâu?”
Giới chính khách cũng thích mẹo này, đại khái như “Bao giờ thì nhóm EU
này sẽ không còn xâm phạm vào công việc của chúng ta?” (35) Ngụy biện tứ ngữ.
(Một tiêu chuẩn của tam đoạn luận gồm có 3 chữ). Ví dụ như trong câu
phát biểu “Tất cả chó là thú vật, và tất cả mèo là loài động vật có vú,
do đó tất cả chó là loài động vật có vú,” có bốn chữ: chó, mèo, động
vật, và động vật có vú. (36) Đứt đoạn.
Hai sự vật riêng biệt được xem là có liên hệ nhau nếu chúng có chung
đặc tính. Người ngụy biện lợi dụng chữ giữa của một phát biểu để đưa đến
một kết luận sai. Chẳng hạn như trong câu “Tất cả người Nga là nhà cách
mạng, và tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ cũng là nhà
cách mạng, do đó, tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ là
người Nga,” chữ chính giữa là “nhà cách mạng”. Nhưng kết luận này sai,
vì dù những người theo chủ nghĩa vô chính phủ và người Nga là những
người cách mạng, nhưng họ có thể là hai nhóm cách mạng khác nhau.
• Các nhầm lẫn khác, (37) Dẫn chứng bằng giai thoại.
Một trong những ngụy biện phổ biến nhất và đơn giản nhất là dựa vào
những câu chuyện có tính vụn vặt, hay giai thoại. Chẳng hạn như “Có hàng
khối bằng chứng cho thấy thượng đế hiện hữu và vẫn ban phép mầu hàng
ngày. Mới tuần rồi đây, tôi có đọc được một câu chuyện về một cô gái sắp
chết vì ung thư, cả gia đình cô đi cầu nguyện trong nhà thờ, và chỉ vài
ngày sau cô hết bệnh.” Dùng kinh nghiệm cá nhân để minh họa cho một
luận điểm là một điều hoàn toàn hợp lí, nhưng dùng những giai thoại như
thế sẽ chẳng chứng minh gì. Một anh bạn có thể cho rằng anh từng gặp
Elvis ở một siêu thị nào đó, nhưng những người chưa gặp Elvis bao giờ
thì cần nhiều bằng chứng xác thực hơn. (38) Lợi dụng cổ tích. Đây
là một loại ngụy biện cho rằng những gì đúng hay tốt chỉ đơn giản vì
chúng là cổ xưa, và những người theo cách ngụy biện này thường nói “hồi
nào đến giờ ai cũng vậy.” Chẳng hạn như “Hàng trăm năm nay, Úc chịu dưới
sự cai trị của Hoàng gia Anh, và là một nước thịnh vượng. Một thể chế
tồn tại lâu dài như thế ắt phải là một thể chế ưu việt.” (39) Dựa vào cái mới (ad novitatem).
Ngược lại với loại ngụy biện dựa vào cái cũ, ngụy biện dựa vào cái mới
cho rằng một điều gì đó tốt hơn và đúng hơn đơn giản chỉ vì nó mới hơn
cái khác. “Windows 2000 phải tốt hơn Windows 95, Windows 2000 mới được
thiết kế lại năm ngoái.” (40) Lí lẽ của đồng tiền. Loại ngụy biện này thường
dựa vào một niềm tin duy nhất rằng đồng tiền là một tiêu chuẩn của sự
đúng đắn. Những người có nhiều tiến có khả năng đúng hơn những người ít
tiền. Chẳng hạn như “Nhu liệu của hãng Microsoft đương nhiên là tốt hơn;
nếu không thì làm sao Bill Gates có thể trở nên tỉ phú như thế” (41) Dựa vào cái nghèo.
Ngược lại với ngụy biện dựa vào sự giàu có, có một loại ngụy biện khác
dựa vào sự nghèo khổ. Chẳng hạn như “Các vị sư có khả năng hiểu thấu
được ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì họ từ bỏ mọi xa hoa của cuộc sống.” (42) Điệp khúc
(ad nauseam). Loại ngụy biện này cho rằng một lí lẽ càng được lặp đi
lặp lại nhiều chừng nào thì nó sẽ được người ta chấp nhận là đúng. Do
đó, người ngụy biện thường chỉ lặp đi lặp lại những phát biểu, bất kể
đúng sai ra sao, cho đến khi người đối thoại mệt mỏi không còn muốn nghe
nữa, như “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lí”. (43) Lạm dụng thiên nhiên.
Đây là một ngụy biện rất thông thường trong giới chính trị gia, mà
trong đó họ tìm cái tương đồng giữa một kết luận nào đó và một khía cạnh
của thế giới tự nhiên, rồi từ đó phát biểu rằng kết luận đó là không
thể tránh khỏi. Chẳng hạn như “Đặc điểm của thế giới tự nhiên là cạnh
tranh; động vật đấu tranh chống nhau để làm chủ tài nguyên thiên nhiên.
Chủ nghĩa tư bản, một hình thức cạnh tranh để làm chủ tư liệu, chỉ đơn
giản là một phần của con người sống trong thế giới tự nhiên. Đó cũng là
cách mà thế giới tự nhiên vận hành.” (44) Ngụy biện “anh cũng vậy”.
Đây là một trong những ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa vào lí lẽ rằng
một hành động có thể chấp nhận được bởi vì người đối nghịch đã làm.
Chẳng hạn như “Anh là một người lừa dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay
lừa dối vậy.” (45) Lạm dụng thống kê.
Thống kê thường được giới ngụy biện sử dụng tối đa, vì theo họ thống kê
có thể dùng để “chứng minh” bất cứ điều gì. Người ta có thể vặn vẹo hai
con số 1 và 3 điểm để sản xuất những phát biểu như “khác nhau 2 điểm”,
“cao gấp 3 lần”, hay “tăng 200%”; người ta có thể dựa vào ý kiến đồng
tình của 4 người trong 5 người để cho là “80% người được thăm dò”, hay
thậm chí “đa số cộng đồng” đồng ý với một luận điểm nào đó. Tức là những
khái quát hoá một cách vội vã, hay dựa vào một mẫu số cực kỳ thấp, thấp
đến độ nó không có nghĩa lí gì. Thực ra, thống kê không chứng minh điều
gì cả. Thống kê chỉ là một phương tiện hay thuật toán dùng để loại bỏ
những trường hợp khả dĩ hay không khả dĩ. Vì có quá nhiều ngụy biện
thống kê, nên vấn đề này sẽ được bàn tiếp trong một dịp khác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét