Từ ý tưởng liệu cổ phiếu thị giá thấp có thể đi nhanh, đi xa hơn cổ phiếu thị giá cao trong bối cảnh hiện nay? Phòng phân tích đã tiến hành thống kê mức độ biến động giá và xác suất tăng/giảm của 2 nhóm cổ phiếu, nhóm thứ 1 có mức giá bé hơn 7000 đồng, nhóm thứ 2 có mức giá cao hơn 30,000 đồng trong chu kỳ wash out từ ngày 9 tháng 5 năm 2011 đến 25 tháng 5 năm 2011; chu kỳ phục hồi từ 26 tháng 5 năm 2011 đến 13 tháng 6 năm 2011; Và đợt điều chỉnh, sideway từ 14 tháng 6 năm 2011 đến 30 tháng 6 năm 2011 ta có bảng số liệu sau:
Chu kỳ giá | 9.5 --> 25.5 | 26.5 --> 13.6 | 14.6 --> 30.6 | |
Mean | S.Price >30,000 đ | -9.9% | 3.9% | -2.2% |
S.Price <7000 đ | -17.0% | 17.0% | -10.4% | |
Medium | S.Price >30,000 đ | -8.1% | 2.6% | -2.5% |
S.Price <7000 đ | -17.4% | 17.5% | -11.0% | |
Probability Down | S.Price >30,000 đ | 84.5% | 25.0% | 62.9% |
S.Price <7000 đ | 93.0% | 11.2% | 88.8% | |
Probability no loss | S.Price >30,000 đ | 15.5% | 75.0% | 37.1% |
S.Price <7000 đ | 7.0% | 88.8% | 11.2% |
Kết quả thống kê trên cho thấy:
- Hầu hết cổ phiếu đều chịu tình trạng giảm điểm trong đợt wash out từ 9/5/2011 đến 25/5/2011. Mức độ giảm điểm của nhóm cổ phiếu >30,000 đồng chỉ khoảng 9% trong khi đó chỉ tiêu này của nhóm cổ phiếu <7000 đồng lên đến 17%.
- Thị trường đón nhận đợt phục hồi khá mạnh từ 26/5/2011 đến 13/6/2011 ngay sau khi xảy ra chu kỳ wash out khủng trước đó. Ở đợt phục hồi này, những cổ phiếu có thị giá <7000 đồng có mức tăng ấn tượng hơn và gần như lấy lại những gì đã mất của đợt wash out, trong khi đó những cổ phiếu có thị giá >30,000 đồng chỉ phục hồi chưa đến 50% giá trị mất đi từ đợt wash out.
- Đợt điều chỉnh, sideway từ 14/6/2011 đến 30/6/2011, các cổ phiếu <7000 đồng có mức giảm mạnh hơn so với các cổ phiếu >30,000 đồng.
- Xác suất giảm điểm các cổ phiếu >30,000 đồng thấp hơn nhiều so với xác suất giảm điểm các cổ phiếu <7000 đồng trong thời kỳ wash out và chu kỳ điều chỉnh, sideway. Nhưng xác suất tăng điểm trong giai đoạn thị trường phục hồi lại thấp hơn các cổ phiếu <7000 đồng.
Một số kết luận, nhận định có thể rút ra sau khi phân tích dữ liệu thống kê trên như sau:
(1) Nên nắm giữ các cổ phiếu có thị giá cao khi thị trường giảm hoặc điều chỉnh, sideway để tối thiểu hóa rủi ro. Đồng thời nên nắm giữ các cổ phiếu có thị giá thấp khi thị trường phục hồi sau những phiên wash out để tối đa hóa lợi nhuận.
(2) Thống kê này còn cho thấy sự quay đầu của thị trường trong những phiên từ 26/5/2011 đến 13/6/2011 là thuần hồi kỹ thuật, chứ chưa phải là một trend tăng dài hạn, vì ở đợt sóng này, dòng tiền mang nhiều tính đầu cơ, đánh nhanh rút gọn, biểu hiện là các cổ phiếu giá lớn không thật sự đi xa, mà dòng tiền còi chỉ "ăn theo" đánh vào các cổ phiếu thị giá thấp để tận dụng xu hướng.
Chiến lược sắp tới:
(1) Nếu xảy ra wash out mạnh thì xem xét đợt wash out này có thể kéo dài bao lâu, thời điểm “vào hàng” phù hợp. Vì thị trường thường hồi phục lớn sau wash out mạnh nên khi vào hàng đợt này ưu tiên những cổ phiếu có thị giá thấp.
(2) Nếu không có wash out mạnh, thị trường rớt từ từ, hoặc sideway thì nên hướng đến những cổ phiếu có thị giá lớn, biên độ giao động hẹp, khó giảm với mục tiêu tối thiếu hóa rủi ro hoặc đứng ngoài thị trường (nếu cần thiết).
Trân trọng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét